Một số hình ảnh về nghệ thuật thị giác
Một trong số các nguyên tắc cần có nhất, quan trọng nhất là Nguyên tắc Cân bằng.
Bất kỳ một thiết kế đồ họa, hay một tác phẩm nghệ thuật đều phải thực hiện tốt yếu
tố cân bằng.
Nó là gì và làm thế nào là nó đạt được trên một bề mặt phẳng? Để trả lời câu hỏi
này, chúng ta phải nghĩ về một tác phẩm ba chiều của nghệ thuật. Nếu các phần
không thể cân bằng hoặc được giữ, chúng sẽ đổ.
Đối với hình ảnh tạo ra trên một bề mặt bằng phẳng như một thiết kế hay một bức
tranh sơn dầu cùng một nguyên tắc cân bằng được áp dụng. Tuy nhiên, thay vì có
thể chất cân bằng thực tế, các nghệ sĩ cần phải tạo ra một ảo giác về sự cân bằng,
được gọi là cân bằng thị giác
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số hình ảnh về nghệ thuật thị giác
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NGHỆ THUẬT THỊ GIÁC Balance – Cân bằng Một trong số các nguyên tắc cần có nhất, quan trọng nhất là Nguyên tắc Cân bằng. Bất kỳ một thiết kế đồ họa, hay một tác phẩm nghệ thuật đều phải thực hiện tốt yếu tố cân bằng. Nó là gì và làm thế nào là nó đạt được trên một bề mặt phẳng? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải nghĩ về một tác phẩm ba chiều của nghệ thuật. Nếu các phần không thể cân bằng hoặc được giữ, chúng sẽ đổ. Đối với hình ảnh tạo ra trên một bề mặt bằng phẳng như một thiết kế hay một bức tranh sơn dầu cùng một nguyên tắc cân bằng được áp dụng. Tuy nhiên, thay vì có thể chất cân bằng thực tế, các nghệ sĩ cần phải tạo ra một ảo giác về sự cân bằng, được gọi là cân bằng thị giác Trong cân bằng thị giác, mỗi khu vực của bức tranh cho thấy một trọng lượng hình ảnh nhất định, một mức độ nhất định nhẹ hoặc nặng. Ví dụ, màu sắc ánh sáng xuất hiện nhẹ hơn trọng lượng hơn so với màu tối. Màu rực rỡ ảnh hưởng thị giác nặng hơn màu sắc trung tính trong cùng khu vực. Màu sắc ấm như màu vàng có xu hướng mở rộng diện tích về kích thước, trong khi màu lạnh như màu xanh có xu hướng giữ diện tích. Và trong suốt ảnh hưởng thị giác ít nặng hơn các khu vực mờ đục. Trong nguyên tắc cân bằng có hai dạng: Cân bằng đối xứng và Cân bằng bất đối xứng. Cân bằng đối xứng: Đây là dạng cân bằng phổ biến trong tự nhiên. Chia ra bởi một trục giữa và không có sự khác biệt trong hai bên. Cân bằng bất đối xứng Cân bằng bất đối xứng được sử dụng hầu hết trong các thiết kế và các tác phẩm nghệ thuật. Bất đối xứng cân bằng là khi cả hai bên trục trung tâm là không giống nhau, nhưng vẫn xuất hiện để lại cùng trọng lượng thị giác. Nó là một sự "cảm thấy" cân bằng hoặc cân bằng giữa các bộ phận của một thành phần hơn là thực tế. Nếu các nghệ sĩ có thể cảm nhận, đánh giá và ước tính các yếu tố khác nhau và trọng lượng thị giác, điều này sẽ cho phép anh ta / cô ấy tạo sự cân bằng tổng thể. Chúng ta có thể sử dụng các yếu tố, màu sắc, kích thước, hình dáng, không gian, số lượng, sắc độ để tạo nên Cân bằng bất đối xứng. Trong thiết kế đồ họa bắt buộc phải có sự cân bằng. Bức bữa tiệc cuối cùng của Davinci là ví dụ mẫu mực về yếu tố Cân Bằng trong nghệ thuật Tương phản – Contrast Sau nguyên tắc Cân bằng thì nguyên tắc Tương phản cũng là một nguyên tắc cần chú ý cho thiết kế của bạn. Tương phản trong nghệ thuật và thiết kế xảy ra khi hai yếu tố liên quan là khác nhau. Quá nhiều điểm giống nhau của các thành phần trong thiết kế sẽ trở thành đơn điệu. Nói cách khác việc sử dụng tương phản quá ít có thể gây ra một thiết kế nhạt nhẽo và nhàm chán. Mặt khác quá nhiều tương phản có thể là khó hiểu. Tương phản xảy ra ra khi bạn sử dụng cùng lúc Màu sắc (Nóng – Lạnh), Đường nét ( Thẳng – cong, ngang- đứng v.v.), Hình khối (Đặc – rỗng, Lớn – nhỏ), Hình dạng (Vuông – Tròn), Chất liệu (Mịn – thô ráp) Nhịp điệu (Nhanh – Chậm), Không gian (rộng – hẹp), Đồng nhất – Khác biệt, Hướng v.v. Để có sự tương phản màu sắc bạn cần hiểu vòng tròn màu. Trong vòng tròn màu, hai màu nắm đối diện nhau tạo nên tương phản mạnh nhất. Hiểu và sử dụng tốt màu sắc không hề đơn giản. Để giúp các bạn nắm rõ hơn iDesign sẽ chuẩn bị bài về lý thuyết và các cách sử dụng màu sắc và đăng trong tuần tới. Tương phản về hình khối – người thiếu nữ và bóng của người này. Tương phản về chất liệu được sử dụng khá phổ biến trong nhiếp ảnh Tác phẩm này hiện diện tương phản về sắc độ và đường nét (cột chống và sợi xích) Và còn rất nhiều ví dụ bạn có thể thấy khắp nơi ở các thiết kế, các tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói nguyên tắc tương phản là nguyên tắc phổ biến nhất của các nhà thiết kế và các họa sĩ. Tương phản và Cân bằng cần sự phối hợp chặt chẽ. Bạn có thể sử dụng tương phản theo một số quy luật kinh điển như Golden Ratio với các tỉ lệ: 1:414, 1:618. Chuyển động – Movement Movement là con đường đôi mắt của chúng ta theo khi chúng ta nhìn vào một tác phẩm nghệ thuật.. Mục đích của Movement là tạo ra sự thống nhất trong các tác phẩm nghệ thuật khi dùng mắt để theo dõi. Nó có thể đạt được bằng cách sử dụng sự nhịp điệu, sắp xếp, nét bút v.v. Chuyển động – Movement quan hệ công tác với nhau bằng liên kết các thành phần khác nhau của một tác phẩm với nhau. Bằng cách sắp xếp các yếu tố thành phần theo một cách nào đó, một nghệ sĩ/ nhà thiết kế kiểm soát sự chuyển động của mắt của người xem trong và xung quanh các thành phần với các bức tranh/ thiết kế. Yếu tố chuyển động trong nhiếp ảnh. Vangogh là một trong những họa sĩ bậc thầy về sử dụng nét bút tạo sự chuyển động trong các tác phẩm. Sắp xếp các yếu tố có chủ ý nhằm tạo sự liên lạc, chuyển động gắn kết trong một tác phẩm. Nhấn mạnh – Emphasis Nhấn mạnh là sự nhấn mạnh của một khu vực cụ thể tập trung hơn là trình bày một mê cung của các chi tiết quan trọng tương đương. Trong nghệ thuật và đặc biệt trong thiết kế Nhấn mạnh là một nguyên tắc không thể thiếu của mỗi thiết kế, mỗi tác phẩm. Chúng ta có thể dùng các nguyên tắc Cân Bằng bất đối xứng, Tương phản, Chuyển động, để tạo nên nhấn mạnh nổi bật cho một đối tượng, cho một thông điệp mà bạn muốn truyền tải từ sáng tạo của mình. Ví dụ đơn giản về Nguyên tắc nổi bật với việc sử dụng màu nóng (mặt trời), màu lạnh (khung cảnh). Đồng thời dòng sông tạo thành đường dẫn hướng mắt người xem vào yếu tố nổi bật nhất. Một cách để đạt được nhấn mạnh là tạo ra trung tâm của sự quan tâm, hay còn gọi là một tâm điểm. Một khu vực trung tâm là khu vực mà mắt có xu hướng tập trung vào đó. Nó là trọng tâm của sự chú ý của người xem. Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân. Trong tác phẩm này xuất hiện Chuyển động – Movement từ tay thiếu nữ, tới bông hoa, tớ gương mặt, rôì tới bờ vai, rồi lại chạy tới tay, tạo thành một vòng khép kín. Khiến gương mặt ghé vào bông hoa thành trung tâm nổi bật của tác phẩm. Cách thứ hai để tạo ra sự nhấn mạnh là bằng cách tương phản yếu ... ững thành viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy. Hầu hết thành viên của trường phái Dã thú là người Pháp và trẻ tuổi. So với khuynh hướng Ấn tượng, sự xuất hiện của hội họa Dã thú mang tính chất đảo lộn, phủ định hơn rất nhiều. Tất cả đều cùng ý chí ” Nổi loạn màu sắc”, Vlaminck và Derain tuyên bố sẽ ” Đốt trụi trường Mỹ thuật bằng các sắc xanh Cobalt và đỏ son”. Để thực hiện tham vọng sáng tạo một nền hội họa mới, các họa sĩ Dã thú chủ trương phất cao lá cờ tự do, không lệ thuộc vào đề tài, vào thiên nhiên và sử dụng màu sắc một cách mạnh mẽ nhất, dùng màu nguyên chất tạo sự tương phản mạnh và vứt bỏ khối vờn, bỏ diễn tả sáng tối. Theo họ như vậy tranh mới phát huy được hết các cường độ và âm hưởng của màu, mới tương ứng với tình cảm mạnh mẽ của lớp thanh niên đầu thế kỷ. Nhãn thức Dã thú đã đưa hội họa đến một không gian chói chang. Họ sử dụng bút pháp phóng đại cường điệu. Con người và sự vật trong tranh được vẽ bởi những nét rất dứt khoát và đậm. Với họ, bức tranh phải thể hiện cá tính mạnh mẽ, biểu hiện những tư tưởng tình cảm và rung động chủ quan của tác giả. Trường phái biểu hiện Bức tranh Tiếng thét của Edvard Munch Chủ nghĩa biểu hiện hay Trường phái biểu hiện (Expressionism) là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển ở châu Âu vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính – xúc cảm của chủ thể (thường là cảm xúc con người hoặc một nhóm người) hoặc xúc cảm của chính người họa sĩ. Những cảm xúc này thường được gây ra bởi một sự kiện đặc biệt nào đó, cũng có thể bởi sự gặp mặt-giao lưu của nhiều người hoặc sự giao lưu của những xu hướng hội họa khác nhau (như cổ điển và hiện đại). Chủ nghĩa biểu hiện thể hiện trong nhiều dạng nghệ thuật, từ hội họa, kiến trúc cho đến văn học, thơ ca, nhạc kịch và điện ảnh. Trường phái lập thể Tranh của Pablo Picasso Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, (Cubism) là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh. Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu. Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ “lập thể” lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một vài lần và sau đó thành tên gọi chính thức. Trường phái Lập thể khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ở gần đó và được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Tuy nhiên, một số họa sỹ khác cũng tự coi là họa sỹ lập thể khi đi theo các khuynh hướng khác với Braque và Picasso. Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện. Các nghệ sỹ thiên tài, Braque và Picasso mở ra phương pháp mới trong cách diễn đạt và thể hiện không gian trong hội họa nhưng chính họ lại bị ảnh hưởng của các nghệ sỹ khác như Paul Cezanne, Georges Seurat, điêu khắc Iberi, nghệ thuật điêu khắc châu Phi và như sau này Braque thừa nhận, họ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dã thú. Các họa sỹ lập thể nổi tiếng của trường phái này: Georges Braque, Marcel Duchamp, Juan Gris, Fernand Leger, Jacques Lipchitz, Louis Marcoussis, Marie Marevna, Jean Metzinger, Francis Picabia, Pablo Picasso, Liubov Popova, Marie Vassilieff, Fritz Wotruba Trường phái tương lai Tranh của Umberto Boccioni Chủ nghĩa tương lai là một trường phái nghệ thuật bộc lộ một cách trần trụi sự bất mãn với xã hội đương thời. Trường phái này nổi bật nhất ở Italy. Các họa sĩ của trào lưu Giacomo Balla, Umberto Boccioni, Carlo Carrà, Severini, Luigi Russolo đã mượn kỹ thuật điểm mảng màu của trường phái Ấn tượng mới và trường phái Lập thể để chồng chéo hình thức, nhịp điệu, màu sắc và ánh sáng, qua đó thể hiện một “cảm giác động” và tính đồng thời của các trạng thái tâm hồn, cấu trúc phức tạp của thế giới. Trường phái Dada (Dadaism) Tranh của Jean Arp Những người theo trường phái dadaism đã cố gắng làm rõ tất cả những ý tưởng và nguyên tắc mới lạ. Ða đa là một phong trào văn học nghệ thuật (nhất là hội hoạ) phản kháng dữ dội của các nghệ sĩ và các nhà văn Âu Mỹ, cống lại sự tự mãn, trong đó, những sức mạnh sáng tạo nghệ thuật được hướng vào việc chống lại nghệ thuật. Phong trào nầy sinh ra do tâm trạng vỡ mộng vì ảnh hưởng của Ðại chiến thế giới lần thứ nhất, mà một số nghệ sĩ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau đã phản ứng lại một cách mỉa mai, cay độc, thậm chí với những tư tưởng vô chính phủ nữa. Qua những thể hiện của họ, cái phi lý và tư tưởng phản kháng là hai điểm nổi bật nhất. Những họa sĩ tham gia trong trường phái Đa đa phải kể: Apollinaire, Marinetti, Picasso, Modigliani, Kandinsky. Tháng 3/1917, một Gallery của trường phái Đa đa ra đờiở Bahnhofstrasse. Tháng 7/1917, cuốn sách đầu tiên của trường phái Đa đa được xuất hiện do hai hoạ sĩ Đa đa thực hiện là Tzana Do Janko và Hans Arp. Một đoạn viết về lịch sử của trường phái Đa đa do Huelsenbeck công bố (7/1920) ở Hanover cho rằng: “Trường phái Đa đa họp tại quán Voltaire tập trung các nghệ sĩ nhạy cảm với sự phát triển những cách thể hiện mới”. Trường phái siêu thực Tranh của Joan Miró Trường phái surrealissm đã phô bày những tác phẩm nghệ thuật bằng trang và bằng chữ viết. Họ nhấn mạnh đến sức mạnh của trí tuệ khi tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa. Với trường phái hội họa này, những chủ thể rất bình dị được đặt trong một phông màn hoặc bí ẩn, hoặc hùng vĩ, khiến cho bức tranh mang một sức sống mới, ý nghĩa mới, như tồn tại trong mơ cùng những sự vật hiện thực trong trạng thái không thực. Trường phái ấn tượng trừu tượng Tranh của Jackson Pollock Trong khoảng thời gian ngắn, nước Mỹ đã phải trải qua một thời kỳ mà phong trào nghệ thuật lên cao. Trường phái ấn tượng trừu tượng này đã đánh dấu một kỷ nghuyên trong lịch Mỹ. Trường phái De Stijl bao gồm một loại hình nghệ thuật mới, đó là kiến trúc nghệ thuật hiện đại. Trường phái này sử dụng những tài năng của các nghệ sỹ để thiết kế nhà cửa, công trình và đồ đạc. Trường phái Kinetic Art Tác phẩm của nhà điêu khắc Naum Gabo Trường phái nghệ thuật này đóng vai trò rất quan trọng bởi vì nó đã khai thác được các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc. Bản thân trường phái này đã chứa đựng rất âm bội bao gồm có những âm bội của nền văn hoá nghệ thuật, tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Trường phái này chủ trương khai thác các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc. Trường phái Pop Art Bức họa Marilyn Monroe của Rebecca Rhys Butler Pop Art là trào lưu nghệ thuật mới ra đời ở Anh trong thập kỷ 50 của thế kỷ 20. Song nơi nó phát triển rực rỡ nhất và để lại dấu ấn trong lịch sử mỹ thuật chính là tại Mỹ. Pop Art nổi tiếng với các bức họa lấy những đề tài bình dân, phổ biến với mọi người như các thần tượng mà mọi người tôn thờ trong ca nhạc, phim ảnh, nhãn mác sản phẩm, tranh quảng cáo, bao bì sản phẩm thậm chí đôi giày, tờ báo làm chủ đề chính để sáng tạo nghệ thuật. Cách thể hiện của trường phái Pop Art chấp nhận tất cả các cách có thể. Bức họa “Marilyn Monroe” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho Pop Art, tác phẩm này thể hiện bằng phương pháp in lưới, bằng máy. Nhiều tác phẩm khác được thể hiện bằng phần mềm máy tính, in bằng máy. Nhiều tác phẩm gắn cả “vật thật” như báo chí, ****************** bia, chai lọ lên tranh. Một số bức họa đắt giá nhất của trường phái này vốn là minh họa cho truyện tranh. Trường phái Op Art Tranh của Victor Vasarely Sự ra đời của trường phái này được gắn với tạp chí Time. Vào năm 1964, tạp chí này đã đăng một bài báo nói về một làn sóng nghệ thuật mới liên quan đến ảo giác. Trường phái Minimalism Tranh của Frank Stella Trường phái này nhận được rất nhiều sự chỉ trích từ công chúng vì họ khó có thể chấp nhận được một dãy hình lập phương, hai hình chữ nhật đặt cạnh nhau hay năm khối hình hộp treo trên tường lại có thể được gọi là nghệ thuật. Đơn giản hóa mọi thứ tối đa, kiệm lời là đặc điểm của trường phái Minimalism. Trường phái nghệ thuật nhận thức Tranh của Lucio Fontana Chính trường phái này đã chấm dứt kỷ nguyên được gọi là “nghệ thuật hiên đại”. Ngày nay, trường phái hậu hiện đại, tân hiện đại và nghệ thuật nhận diên đã chiếm ưu thế trong thị trường nghệ thuật. Các nghệ sỹ của ngày hôm nay không còn là một phần của nguồn nghệ thuật tập thể nhưng họ đã đào sâu những xu hướng và ý tưởng mới thay đổi từ năm này sang năm khác. Trường phái nghệ thuật nhận thức này đã giúp chúng ta đem lại độc lập, và trong một khía cạnh nào đó nó đã hoàn thành một kỷ nguyên với những tư tưởng nghệ thuật mới, mà khởi đầu là từ trường phái ấn tượng cách đây 100 năm. Các trường phái hội họa khác Gần gũi nhất với chúng ta ở Châu Á, có thể nói đến các trường phái Thư pháp, Thủy Mặc của Trung Quốc, cũng có sức ảnh hưởng rất lớn tới các quốc gia trong khu vực, và trở thành hiện tượng mới làm ảnh hưởng sang cả Châu Âu, Châu Mỹ. Kết luận Mỗi trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp, quyết định riêng việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình và xử lý kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu quả mong muốn. Xã hội càng phát triển, nhận thức của con người càng cao thì các trường phái hội họa càng lớn mạnh, càng xuất hiện nhiều trường phái mới. CÁC DỰ ÁN VỀ NGUYÊN LÝ THỊ GIÁC Việt Nam tham gia ngày hội nghệ thuật đương đại ĐNA Bangkok Art and Culture Centre (Trung tâm Nghệ thuật và Văn hóa Bangkok) của Thái Lan sẽ tổ chức một triển lãm mới về nghệ thuật thị giác đương đại trong khu vực với tên gọi “Tranh luận khái niệm Bối cảnh: Nghệ thuật và tập thể trong khu vực Đông Nam Á,”diễn ra từ nay cho đến đầu tháng 3/2014, nhằm kỷ niệm hội nhập ASEAN vào năm 2015. Các nghệ sỹ tham gia sân chơi nghệ thuật đương đại Đông Nam Á. (Ảnh: BTC) Bangkok Art and Culture Centre (Trung tâm Nghệ thuật và Văn hóa Bangkok) của Thái Lan sẽ tổ chức một triển lãm mới về nghệ thuật thị giác đương đại trong khu vực với tên gọi “Tranh luận khái niệm Bối cảnh: Nghệ thuật và tập thể trong khu vực Đông Nam Á,”diễn ra từ nay cho đến đầu tháng 3/2014, nhằm kỷ niệm hội nhập ASEAN vào năm 2015. Tại sự kiện, Việt Nam cũng góp mặt với các nghệ sỹ Bùi Công Khánh, Nguyễn Văn Cường, Phan Thảo Nguyên, Tùng Mai và đặc biệt có các tác phẩm của cố nghệ sỹ Vũ Dân Tân.Đặc biệt, hơn 40 nghệ sỹ nổi tiếng của ba thế hệ đến từ tám quốc gia mang đến gần 50 tác phẩm nghệ thuật tương tác, tác phẩm dựa trên văn bản, hội họa, nhiếp ảnh, nghệ thuật âm thanh... và bao gồm một số tác phẩm ở dạng trò chơi.Những tác phẩm của các nghệ sỹ từ Thái Lan, Indonesia, Philippines, Việt Nam, Malaysia, Singapore, Myanmar và Campuchia sẽ khái quát một trong những chủ đề quan trọng nhất của nghệ thuật đương đại khu vực và các địa phương bắt nguồn từ tư duy khái niệm được sử dụng để tham gia vào các ý tưởng cho tập thể, cho nghệ thuật đương đại Đông Nam Á bốn thập kỷ qua.Chương trình nghệ thuật đương đại này được đánh giá lớn nhất Đông Nam Á và đã từng được tổ chức tại Thái Lan với chủ đề “Concept Context Contestation: art and the collective in Southeast Asia” dưới sự giám tuyển của Iola Lenzi, Agung Hujatnikajennong và Vipash Purichanont./. 8 dự án nghệ thuật của Việt Nam được Đan Mạch tài trợ QĐND - Trong cuộc họp báo được Đại sứ quán Đan Mạch tổ chức tại Hà Nội, Đại sứ Giôn Ni-en-xen - Chủ tịch Quỹ Phát triển và Trao đổi văn hóa Đan Mạch-Việt Nam (CDEF) đã công bố danh sách 8 dự án và các nghệ sĩ được nhận tài trợ trong thời gian tới. Theo đó, 8 dự án nghệ thuật nhận tổng số tiền tài trợ hơn 100.000USD. Các dự án được hỗ trợ lần này khá đa dạng về thể loại, bao gồm múa, nghệ thuật thị giác, âm nhạc và đa phương tiện. Chương trình phát triển văn hóa của Đại sứ quán Đan Mạch hỗ trợ cho các nghệ sĩ đương đại, các buổi biểu diễn văn hóa nghệ thuật tại Việt Nam, đồng thời hỗ trợ cho các hoạt động trao đổi nghệ thuật giữa Đan Mạch và Việt Nam. Liên hoan Nghệ thuật thị giác vinh danh nghệ sĩ trẻ "Spot Art" là liên hoan nghệ thuật thị giác đầu tiên của khu vực Đông Nam Á chỉ dành riêng cho các nghệ sĩ dưới 30 tuổi. Liên hoan được Togetherprojects - một đơn vị chuyên bồi dưỡng các tài năng nghệ thuật khu vực Đông Nam Á tổ chức. Tuy là một liên hoan songSpot Art vẫn có giám khảo lựa chọn, đánh giá để vinh danh các tác phẩm nghệ thuật đương đại. Hội đồng tuyển chọn là những chuyên gia nghệ thuật nổi tiếng đến từ Đông Nam Á, gồm các học giả, chủ phòng tranh thương mại và nhà sưu tầm nghệ thuật xuất sắc khu vực. Một tác phẩm của Trần Chí Thành - người được lựa chọn tham gia Spot Art. Sau thời gian làm việc, hội đồng tuyển chọn đã chọn ra được 200 tác phẩm của hơn 70 nghệ sĩ để triển lãm. Các nghệ sĩ đều dưới 30 tuổi và đến từ 10 quốc gia bao gồm: Campuchia, Malaysia, Pakistan, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam, Hong Kong, Thái Lan, Singapore. Ký ức đen - tác phẩm của Lê Thị Hương Giang - được lựa chọn cho Spot Art. Hai nghệ sĩ Lê Thị Hương Giang và Trần Chí Thành là đại diện của Việt Nam có tác phẩm được lựa chọn tham gia liên hoan Spot Art lần này. Spot Art sẽ diễn ra tại không gian triển lãm ARTrium, Singapore từ 26/10 tới 4/11. . .
File đính kèm:
- mot_so_hinh_anh_ve_nghe_thuat_thi_giac.pdf