Mĩ học hiện sinh và sự lên ngôi của nhân vị
Bằng cái nhìn về bản chất “di trú” của loài người nguyên thủy, triết thuyết hiện sinh quan niệm
con người là kẻ “di dân” đi vào chốn xa lạ để tìm kiếm những giá trị trong không gian sống. Điều mà chủ
nghĩa sinh tồn quan tâm là xác định cho được một chủ thể sinh tồn - chủ thể thực hiện hành vi tính
người. Đây là sự cộng hưởng của những giá trị nhân vị để làm nên sức ám ảnh của mĩ học hiện sinh
trong hành trình lên ngôi của nhân vị. Nghĩa là từ góc nhìn của mĩ học hiện sinh, con người chìm trong
vòng xoáy thực tại. Mĩ học hiện sinh quan tâm nhiều đến vấn đề vai trò tham dự của con người vào ý
nghĩa vong tồn của từng hữu thể, sự nổi loạn trong nghệ thuật. Tất cả tạo thành chức năng của nghệ
thuật là lừa dối và tự lừa dối; kết thúc bằng mục đích nhân đạo cao cả của nghệ thuật. Đây cũng là giá
trị nhân bản của nghệ thuật chân chính
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mĩ học hiện sinh và sự lên ngôi của nhân vị
UED Journal of Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 123-131 | 123 * Liên hệ tác giả Nguyễn Thanh trường Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng Email: thanhtruong2806@yahoo.com Nhận bài: 26 – 05 – 2015 Chấp nhận đăng: 01 – 11 – 2015 MĨ HỌC HIỆN SINH VÀ SỰ LÊN NGÔI CỦA NHÂN VỊ Nguyễn Thanh Trường Tóm tắt: Bằng cái nhìn về bản chất “di trú” của loài người nguyên thủy, triết thuyết hiện sinh quan niệm con người là kẻ “di dân” đi vào chốn xa lạ để tìm kiếm những giá trị trong không gian sống. Điều mà chủ nghĩa sinh tồn quan tâm là xác định cho được một chủ thể sinh tồn - chủ thể thực hiện hành vi tính người. Đây là sự cộng hưởng của những giá trị nhân vị để làm nên sức ám ảnh của mĩ học hiện sinh trong hành trình lên ngôi của nhân vị. Nghĩa là từ góc nhìn của mĩ học hiện sinh, con người chìm trong vòng xoáy thực tại. Mĩ học hiện sinh quan tâm nhiều đến vấn đề vai trò tham dự của con người vào ý nghĩa vong tồn của từng hữu thể, sự nổi loạn trong nghệ thuật. Tất cả tạo thành chức năng của nghệ thuật là lừa dối và tự lừa dối; kết thúc bằng mục đích nhân đạo cao cả của nghệ thuật. Đây cũng là giá trị nhân bản của nghệ thuật chân chính. Từ khóa: mĩ học hiện sinh; nhân vị; nghệ thuật; chủ nghĩa hiện sinh; chủ thể. 1. Đặt vấn đề “Con người giải quyết số phận của mình trong tình trạng hoàn toàn cô độc” (Sartre). Tuyên ngôn phận người đầy kiêu hãnh được hiểu như đường dẫn tới khung giá trị về con người của chủ nghĩa hiện sinh - khơi nguồn cho những ý nghĩa của mĩ học về bản thể sinh tồn. Với các triết gia hiện sinh hay các nghệ sĩ hiện sinh, nghệ thuật là không gian để triết thuyết của họ được thực chứng. Đối với người hiện sinh, hình tượng nghệ thuật là phát ngôn của triết lí hiện sinh. Mỗi trường phái là một quan niệm mĩ học khác nhau. Song lớn hơn một cuộc gặp gỡ, tất cả đều hướng về năng lực phục dựng thế giới nhân vị. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Con người, từ yếu tính tự nhiên đến nhân vị Con người tự nhiên và những khám phá đầu tiên được khởi đi từ trong tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại, với quan niệm chủ quan diễn giải thế đứng con người giữa vũ trụ quan, mà theo lí thuyết thông diễn đã đưa đến mối hòa giải giữa nhân sinh quan và vũ trụ luận. Hơn nữa, trong mối quan tâm sâu sắc giữa thực thể tồn tại của loài người từ thuở hồng hoang như một dấu hỏi dài chưa tìm ra được lối thoát thì các nhà tự nhiên chủ nghĩa đã hướng tới nhận diện, định giá nhân tính - tính cách người tiềm tại như những hạt phân tử được tác hợp từ các mẩu ghép bản thể nguyên sơ, một sự khai sinh tự nhiên, trần trụi của thế giới người nguyên thủy. Đối với triết học cổ đại Hy Lạp, chủ nghĩa tự nhiên lí giải con người là sự hợp thành của những sự vật khác nhau xoay quanh phạm trù thân xác và linh hồn. Linh hồn là một loại bản thể, tham dự vào lí tính, phù hợp với việc cai quản thân xác. Theo Augustine, linh hồn và thể xác khác nhau về mặt siêu hình học. Tính nguyên hợp trong mỗi cá thể người cần tới phương thức đa hợp giữa linh hồn và thân xác, và ở đó, linh hồn cao hơn thân xác. Điều này thể hiện ở sự phân loại các sự vật theo thứ bậc chức năng, đó là nhóm những sự vật tồn tại là nó, sự vật tồn tại để sống và những sự vật sống một cách lí tính. Đây là lí do N.Blasquez thừa nhận thuyết nhị nguyên của Augustine về các bản thể thân xác và linh hồn không ngăn cản ông coi sự thống nhất giữa thân xác và Nguyễn Thanh Trường 124 linh hồn như là tự thân bản thể. Còn với Aristote, con người là con vật khả tử có lí tính (animal rationale mortale). Theo lí thuyết về hiện tượng con người, Chardin lại cho sự xuất hiện đầu tiên của con người đồng hành với ngưỡng cá thể của sự phản tư. Đó là hình thái tồn tại bản nguyên của loài người như một cá thể sinh tồn. Tiến trình tự nhiên của con người đặt con người vào hai giá trị nghĩa, thứ nhất con người là sinh linh đẹp nhất, thứ hai con người còn là sinh linh tự giác nhất. Với ý nghĩa tư cách thứ hai, con người tự thân trở thành tác nhân của quá trình tạo ra thế giới, cảm nhận thế giới. Và con người tự nhiên với hai tư cách tồn tại đã trở thành nền tảng mà các nhà mĩ học hiện sinh quan tâm. Như vậy, cuối cùng con người được trả về bản nguyên của giá trị đích thực. Con người tạo dựng được chỗ đứng cho nó với tư cách làm chủ hoạt động thẩm mĩ, tất nhiên trong đó có sáng tạo nghệ thuật. Đến quan điểm của triết học hiện sinh, Marcel xác nhận thân xác vừa là sở hữu vừa là hiện hữu trong ta. Tuy nhiên, điều quan trọng là Marcel đưa ra nhận định sâu sắc về tính năng, vai trò chủ thể sinh hoạt của thân xác. Bằng cách tạo ra thế lưỡng phân giữa cái nhìn cá thể và môi trường sống, kể cả môi trường hẹp - tha nhân và với cái nhìn về bản chất “di trú” của loài người nguyên thủy, triết thuyết hiện sinh cho rằng con người là những kẻ “di dân” đi vào chốn xa lạ để tìm kiếm những giá trị trong thế giới sống1. Theo đó, Marcel đã lập thuyết cho thân xác có những yếu tính tương tác với linh hồn và là phương diện thể chất của linh hồn. 1Marcel nhấn mạnh tính chủ thể của thân xác: “Chính xác ta nhìn sự vật, chính tai ta nghe âm thanh, chính xác ta tri giác thấy vũ trụ muôn màu và thiên hình vạn trạng. Không có xác chủ thể, chúng ta chỉ có thể suy tưởng về những màu sắc, suy nghĩ về những âm thanh và suy nghĩ về những hình thể thôi; không thân xác chủ thể, ta không bao giờ có những tri giác mà chỉ có những ý tưởng thôi. [5, tr.272] Trên quan điểm hiện tượng luận, Husserl đã thể hiện một cách nhận thức khác của mình về con người, đặt con người trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng. Để sắp xếp, tổ chức đời sống giữa phi ngã và tha nhân, mà theo Heidegger, đó là thế giới đã được thuộc địa hóa. Thế giới đó chính là đời. Đi vào thế giới là đi vào đời. Sống ở đời nghĩa là cách t ... hể hiện sinh tự cấp cho mình cái quyền năng kiểm chứng - là mang cái “vị thân” vào cuộc sống như hành vi đẩy chủ thể vào giữa tha nhân. Những biến động này đã gợi hứng cho va chạm của chủ thể sáng tạo trong những cuộc dấn thân. Khởi từ trạng thức lưỡng lự giữa khách quan tính và chủ quan tính. Trạng huống này không ngoài cái khát khao của chủ thế tính muốn vượt thoát mình. Hay đó còn là ham muốn tột cùng trong tạo dựng nhân cách, xác định tinh thần nhân vị với phương châm - tự giải phóng khỏi sự trói buộc của cái cực đoan, phải tuyệt đối hóa trong giao diện khách quan hóa và chủ quan hóa. Vì vậy để trả con người về vị trí đích thực trong chân không vũ trụ, triết học hiện sinh đã đánh bật con người đến tận “gốc rễ”. Cuộc đại phẫu không né tránh, tất yếu tạo nên những luồng phản kháng tức thì, nguyên do quá trình cảm nhận tự do được đẩy cao đến thái quá (những giấc mơ quá trớn, những đề cao vượt giới hạn năng lực người). Song, hiệu ứng của sự phản đề không hoàn toàn triệt tiêu phẩm chất nhân vị, những thích ứng tự thân thuộc cơ chế xung năng trong năng lực người đã nhanh chóng tạo sinh lực đẩy mang tính xác quyết cho hành trình nhân vị lên ngôi. Các nhà hiện sinh quan tâm đến dự phần của con người trong nhiều vai. Thế giới bao quanh con người theo quan niệm này là cõi hỗn mang dày đặc, cõi hỗn mang vĩnh viễn. Và họ quan tâm đến quyền tự do nội tâm của cá thể người, tự do tuyệt đỉnh trong sáng tạo. Kể cả tự do trong tuyệt vọng cũng bắt gặp phạm trù tham dự của con người, để đích thực tự do. Còn theo Jaspers, sinh ra là người đã là tự do tuy nhiên đó không phải là tự do con người tự ban cho mình mà là tự do Thượng đế ban cho. Với nhà triết học hiện sinh này, con người không có tự do tuyệt đối mà chỉ có tự do hữu hạn. Có thể thấy bằng ý thức tham dự, các nhà hiện sinh cho rằng với họ, nghệ thuật là ngôn ngữ liên hệ. Liên hệ giữa hành vi tham dự và hệ quả tham dự. 2.4. “Sự nổi loạn trong nghệ thuật” Siêu hình đứng bên trên tất cả các thực hành, như Lão tử đã nói: Đạo bảo rằng, đẹp thì đẹp thật, nhưng không thể ứng dụng; chính cái vĩ đại trong đạo là không thể ứng dụng, bởi sự ứng dụng sẽ dẫn tới sự chia cắt từng mảnh. Quan niệm này như tiền đề cho sự lí giải một cách siêu hình rằng theo thời gian, những sáng tạo của con người sẽ mất mát, sẽ thanh lọc và cần bổ sung. Với tư duy này, chỉ thời gian siêu hình còn đọng lại trên tất cả, trên con người, vĩnh viễn; cùng với thế giới, tinh thần và ý nghĩa của thế giới là “logos”, cũng là hướng đến sự tuyệt đối. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa tự nhiên, cái đẹp hiện thân của tính mỏng manh của mọi sự biểu hiện cá thể, là quy luật định mệnh. Tuy nhiên cái đẹp không tách rời khỏi ý nghĩa khách quan. Nó vừa mang tính chất khải huyền vừa hiện thân của tinh thần. Cái đẹp chân chính đòi hỏi tính tự do lớn hơn so với yếu tính người; là biểu hiện của sự dung hợp các yếu tố của đời sống xã hội cao hơn tính nguyên hợp cổ xưa trong văn hóa nguyên thủy6. Trong số các học giả hiện sinh, Camus 6Xem quan niệm về ý nghĩa nghệ thuật của Soloviev trong Soloviev (2011), Siêu lí tình yêu, Nxb Tri thức, H. quan tâm hơn cả đến phạm trù cái đẹp. Trong quan niệm siêu hình học, Camus cho rằng cái khổ hạnh dường như tiêu biểu cho mĩ học của các trường phái Nga tạo thành cái nghịch dị của quan niệm hiện thực. Trên cơ sở đó, nghệ thuật chính là băng chuyền trải hiện cho quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh phi lí của Camus hướng tới cái đẹp, dù đó là cái đẹp của sự nổi loạn đến “sứt mẻ’. Như một sự triệt tiêu thái độ bất cần ngay trong bản lề mỗi hữu thể người, thuyết nghệ thuật phi lí - sự nổi loạn trong nghệ thuật đã nâng triết thuyết của Camus lên ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 123-131 129 thành tấm thảm của những phản đề mới. Phản kháng để mổ xẻ cái đẹp hay phản ngộ để tái tạo cái mới. Xuất phát từ quan điểm phê phán, Camus đã đưa ra quan niệm riêng của mình về thế giới bí ẩn của nghệ thuật. Đối thoại với Niethze, Camus hi vọng vào sức mạnh của cái đẹp có khả năng làm một cuộc vượt thoát tính cách siêu việt, phá vỡ sự im lặng để được trình bày ra1, mà theo các triết gia hiện sinh, đó là sự phản kháng, thách thức cái hiện tồn trong “hố thẳm”. Với một số quan niệm của mĩ học hiện sinh, thì cái đẹp chính là nền tảng đưa triết thuyết của chủ nghĩa hình thức Nga đi vào con đường diệt vong. Và khước từ chủ nghĩa hư vô, khước từ quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Đó là bản chất của con người nổi loạn, là định hình cho hành vi phản kháng, dù đó là phản kháng cầm tù hay phản kháng để hướng về một thực thể bất toàn. Chính Camus đã đặt ra những giả thuyết đối thoại với Mĩ học Macxit trong việc tạo ra những nấc thang giá trị mà theo ông, đó chỉ là những nấc thang cứu vớt tạm bợ một quan niệm nghệ thuật đen tối của một kiếp nghệ thuật trung cổ đã sớm lụi tàn. Quan niệm cực đoan này của Camus lại khơi nguồn cho một cách tân tư tưởng mĩ học, mà sau này một số triết gia hiện sinh gọi là sự hòa giải bản thể của loài người để quyết giữ lấy những giá trị ý nghĩa của sự sinh tồn, đúng như quyền năng của tạo hóa là khai sinh ra loài người, thậm chí là hôn phối giữa loài người và tự nhiên dựa trên thuyết nhân vị mà chúng ta vẫn quen gọi là nhân học văn hóa. Sự hạn định trong mỗi chủ thể luôn tồn tại một môi trường tự nhiên ở trong nó. Sự thích nghi hay chối bỏ trong cuộc đấu tranh 7“Trình bày ra”, được hiểu theo nghĩa rộng là giải phóng - là phương tiện phóng thích cái vô hạn định cho năng lực tinh thần chủ thể. tồn tại với khách thể8. Hay nói cách khác quy chiếu trong hệ sinh thái - nhân văn9, chủ thể cũng là một đơn vị sống trong các khách thể (hệ sinh thái). Như vậy, quan niệm của con người hiện sinh về ý nghĩa của nhân vị - ý nghĩa tồn vong của ý thức người hiện hữu trong mối quan hệ với thiên nhiên, với môi trường qua “kinh nghiệm của kẻ khác” mà Sartre gọi là lăng kính mổ xẻ của tha nhân. Với thái độ xác tín về cái đẹp trong tinh thần nhân vị, một số triết gia hiện sinh đi theo lối phản kháng đã “phản tư” các triết thuyết về nghệ thuật và vai trò của nó với thế giới loài người. Theo đó, không có nghệ thuật nào có thể tồn tại bên ngoài. Camus cần đến Hegel để thực hiện ý đồ đoạn tuyệt với quan điểm mĩ học của Marx, tuy nhiên đó là sự tương tác để chắt lọc phẩm chất trong nhân vị. Xét trên góc độ “liên chủ thể”, quan niệm cái đẹp của triết học hiện sinh là một gạch nối không đứt đoạn đối với những quan niệm về cái đẹp của các trường phái mĩ học khác, kể cả quan niệm cái đẹp theo Hegel, Marx và một số nhà mĩ học bận tâm đến bản thể của cái đẹp như một hành vi sống. Song ở góc nhìn hiện sinh, một số thời điểm người hiện sinh cuốn vào giới hạn những lựa chọn nghiệt ngã khi trực diện với các phạm trù đối lập. Để người hiện sinh lựa chọn ý thức về cái đẹp như một cứu cánh của tinh thần tự do; tự do trong cô độc. Đối với mĩ học hiện sinh, không có cái gọi là trác tuyệt mà cái trác tuyệt có tồn tại cũng chỉ là nguyên nhân của những hình thái thẩm mĩ vị “nhân sinh”. Tức là đặt ra những triển hạn của cái đẹp. Cho một thực thể tự do “thông diễn”. Hiểu như Sartre, cái đẹp trong nghệ thuật còn như là hình thái biến thể của sự “tự lừa dối”. Và theo Sartre, mĩ học hiện sinh chính là cái nhìn đông cứng về quan hệ giữa đối tượng khách quan với thế giới hư vô trong nghệ thuật. Khởi đi từ tiền đề về cuộc sống của các nhà hiện sinh, là con đường định hướng cho những sáng tạo 8Hiểu theo quan niệm về khách thể của Jacques theys: khách thể không chỉ là những yếu tố riêng biệt, những cá thể sống mà là các tổng thể “các khách thể” tự nhiên ở tất cả các cấp độ [3, tr.27]. 9Hệ sinh thái được hiểu là “một hệ thống mở () các sinh thể (các cơ thể tự dưỡng, các cơ thể dị dưỡng hay tiêu thụ, các cơ thể họa sinh), những vật chất không sống; những chất có nguồn gốc sống và cần cho sự sống” [1, tr.7]. chân chính10. Và đặt ra vấn đề “chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa nhân bản”. Ngay cả Kant cũng quan niệm cho lập thuyết này trong cái gọi là đồng chất: cái phi hiện thực vượt lên hiện thực mới là cơ sở tạo thành khoái cảm thẩm mĩ. Vậy tất yếu, cái ý đồ nghệ thuật và đối tượng được miêu tả đều hòa vào nhau thành một thứ thực tại mới còn sinh động hơn cái hiện thực nguyên bản. Bản chất hiện hữu chỉ là cái bóng của sự hiện tồn. Vì vậy cái đẹp trong quan niệm hiện sinh là thông diễn vào chiều sâu để tìm kiếm bản thể; là “lột xác” để vượt Nguyễn Thanh Trường 130 thoát. Jaspers cho rằng nghệ thuật phục vụ tôn giáo, trung thành với tôn giáo. Nghệ thuật là “hành động sáng tạo cuối cùng ở ranh giới của cái lí trí”. Cái bên trong của người nghệ sĩ xô đẩy anh ta đến với cái tự do vô hạn của nghệ thuật. Đó là cái không ranh giới để thẩm định hành vi sáng tạo của người nghệ sĩ ngang bằng với trò chơi “hiện sinh”. Huyền thoại nghệ thuật trong quan niệm nghệ thuật. Một số triết gia hiện sinh tôn sùng Gide đã phán xét về giá trị “tội lỗi” của nghệ thuật và “kẻ mang tội” của người sinh thành nghệ thuật. Theo đó, nghệ thuật “là một tội lỗi mà người ta không thể nào không phạm”. Bởi vì chức năng của nghệ thuật là lừa dối và tự lừa dối; kết thúc bằng sự quy định mục đích nhân đạo cao cả của nghệ thuật. Heidegger quan niệm về nghệ thuật như là hình thái của động cơ “tín hiệu sáng tạo”. Nhà triết học này đã loại trừ quan điểm mĩ học của các nhà triết học kinh điển thế kỉ 18 - 19, khi cho rằng ý nghĩa, mục đích cuối cùng của nghệ thuật là tự do. Heidegger đã cấp cho nó ý nghĩa tự do - phục dựng giá trị tuyệt đối trong mỗi bản mệnh. Theo đó, sứ mạng của nghệ thuật là xâm nhập vào cái trống rỗng và cái phi nghĩa lí của cuộc sống để đạt đến sự khai phát tự nhiên của bản thân tồn tại11. Như vậy, quan niệm về người nghệ sĩ của các nhà hiện sinh là cuộc chơi chiếm lĩnh thế giới của một người sống mê, cơn mê của sáng tạo. 10“Có một lực tàn phá chặt chẽ liên kết với cuộc sống của ta đôi khi ta không thể phân biệt nó ra nổi, nó lôi kéo chúng ta luôn để làm sao ta đánh mất cuộc sống đích thực - có một lực khác lại thôi thúc chúng ta phải làm hòa với chính ta” [7, tr.95-96]. 11Với các nhà hiện sinh chủ nghĩa theo thuyết cải hóa cá nhân, trong đó có Kierkégaard, với quan điểm của một nghệ sĩ bị sự giải trí mê hoặc đã cho rằng sự giải trí của người nghệ sĩ là sự say sưa tìm kiếm những cái “hay hay” ở đời; là giai đoạn thẩm mĩ, là giai đoạn đầu tiên trong cuộc sống có tính chất biện chứng của một hiện sinh thể” [7]. 3. Kết luận Mĩ học hiện sinh có sứ mệnh đưa ra một cái nhìn khác về bản chất người. Con người hành trình đi kiếm tìm nhân vị và khám phá năng lực ý thức nhân vị, cũng là hướng tới khẳng định giá trị nhân vị. Theo đó, mĩ học hiện sinh đã đóng dấu cho bản mệnh cấu trúc tinh thần vị nhân là sống trong ý thức, trong đối diện với nghiệt ngã, với “hố thẳm” và “hư vô”. Trong cái thế giới huyền nhiệm đó, con người có thể thành thánh và cũng có thể thành quỷ; có thể thắng dục vọng và cũng có thể là nô lệ của dục vọng. Sự cộng hưởng mang tính đa ngã trong tinh thần nhân vị đã minh nhiên cho hành vi ý thức của chủ thể tính. Trở về, cái bất biến thuộc bản chất đã tạo sinh dự phóng và cả những thách thức trong tư thế người nghệ sĩ hiện sinh - khi xem nghệ thuật là cứu cánh. Với quan niệm hành vi sáng tạo nghệ thuật như những thăng hoa tuyệt đỉnh trong cấu trúc của “trò chơi” hiện sinh, mĩ học hiện sinh đã đặt ra cho mình vinh dự đi vào tìm kiếm bản mệnh giữa nghệ thuật - đời sống - con người. Thực chất là một cuộc săn đuổi cái đẹp ngay trong những giá trị nhân vị. Trong đó có cả những cái phi lí, nổi loạn. Để làm thức dậy một khát vọng dấn thân cho một hình hài nghệ thuật hiện hữu, sinh tồn. Tài liệu tham khảo [1] Trần Lê Bảo (chủ biên) (2001), Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Văn hóa thông tin, H. [2] Teilhard de Chardin (2014), Hiện tượng con người, Nxb Tri thức, H. [3] Oliver Coutard, Jean - Pierre LéVy (2012), Sinh thái học đô thị, Nxb Thế giới, H. [4] Denis Diderot (2013), Từ mỹ học đến các loại hình nghệ thuật, Nxb Tri thức, H. [5] Trần Thái Đỉnh (2008), Triết học hiện sinh, Nxb Văn học, H. [6] Huisman (2004), Mĩ học, Nxb Văn hóa thông tin, H. [7] E. Mounier (1970), Những chủ đề triết hiện sinh, Nhị Nùng xuất bản. [8] Krishnamurti (2007), Đường vào hiện sinh, Nxb Lao động, H. [9] Krishnamurti (2005), Krishnamurti cuộc đời và tư tưởng, Nxb Văn học, H. [10] Vladimir Soloviev (2011), Siêu lý tình yêu, Nxb Tri thức, H. [11] Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lí luận - phê bình văn học thế giới thể kỉ XX (tập 1), Nxb Giáo dục, H. [12] Lê Thành Trị (1974), Hiện tượng luận về hiện sinh, Trung tâm học liệu xuất bản. EXISTENTIAL AESTHETICS AND THE RISE OF PERSONALISM Abstract: In view of the "migration" nature of the primitive man, existentialism regards humans as "immigrants" into a strange place to find values in a living space. The focus of existentialism is to determine an existential subject - the performer of human acts. ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 123-131 131 This is the resonance of personalist values to build up the haunting charm of existential aesthetics in the rise of personalism. This means that from the perspective of existential aesthetics, people are engulfed in a reality whirlpool. Existential aesthetics is much concerned with the role of humans as participants in the survival and death significance of each entity and in art rebellion. All these form art functions which are deception and self - deception, resulting in the noble humanitarian purpose of art. This is also the humanistic values of true art. Key words: existential aesthetics; personalism; art; existentialism; subject.
File đính kèm:
- tap_chi_khoa_hoc_xa_hoi_nhan_van_va_giao_duc.pdf