Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD)

Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, riêng vùng châu thổ Bắc Bộ có tới

108 nghề. Nhiều làng còn gắn tên mình với tên nghề, hay gắn địa danh của một vùng với

nghề, những làng nghề này ít nhiều đó nổi danh từ lâu, có quá khứ từ trăm ngàn năm, tên

làng đó đi vào lịch sử, ca dao, tục ngữ. trở thành di sản văn hóa dân gian như các làng

nghề: làng chạm gỗ La Xuyên, làng sơn Hạ Thái, làng gốm Bát Tràng, làng mây tre đan Phú

Vinh, làng tranh Đồng Hồ, làng sơn quang Cát Đằng, làng lụa Hà Đông, làng thêu Quất

Động. Như vậy, làng chính là nơi bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và cơ sở

văn hóa của MTƯD chính là những nét văn hóa truyền thống đó. Có thể nói cơ sở văn hóa

của MTƯD là những nét văn hóa truyền thống của dân tộc, mà nơi bảo lưu, gìn giữ chúng là

những làng quê Việt Nam. Vì thế, lịch sử hình thành MTƯD ở nước ta không thể tách rời với

quá trình hình thành các làng nghề

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 1

Trang 1

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 2

Trang 2

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 3

Trang 3

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 4

Trang 4

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 5

Trang 5

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 6

Trang 6

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 7

Trang 7

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 8

Trang 8

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 9

Trang 9

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD) trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 4160
Bạn đang xem tài liệu "Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD)

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD)
15Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG - NỀN TẢNG ĐỂ 
XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN CÁC TÁC PHẨM MỸ THUẬT 
ỨNG DỤNG (MTƯD)
TRADITIONAL VILLAGE - FOUNDATION FOR BUILDING AND 
DEVELOPING APPLICABLE ART WORKS
Nguyễn Lan Hương*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 310/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/04/2020
Tóm tắt: Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, riêng vùng châu thổ Bắc Bộ có tới 
108 nghề. Nhiều làng còn gắn tên mình với tên nghề, hay gắn địa danh của một vùng với 
nghề, những làng nghề này ít nhiều đó nổi danh từ lâu, có quá khứ từ trăm ngàn năm, tên 
làng đó đi vào lịch sử, ca dao, tục ngữ... trở thành di sản văn hóa dân gian như các làng 
nghề: làng chạm gỗ La Xuyên, làng sơn Hạ Thái, làng gốm Bát Tràng, làng mây tre đan Phú 
Vinh, làng tranh Đồng Hồ, làng sơn quang Cát Đằng, làng lụa Hà Đông, làng thêu Quất 
Động... Như vậy, làng chính là nơi bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và cơ sở 
văn hóa của MTƯD chính là những nét văn hóa truyền thống đó. Có thể nói cơ sở văn hóa 
của MTƯD là những nét văn hóa truyền thống của dân tộc, mà nơi bảo lưu, gìn giữ chúng là 
những làng quê Việt Nam. Vì thế, lịch sử hình thành MTƯD ở nước ta không thể tách rời với 
quá trình hình thành các làng nghề.
Từ khóa: Làng nghề, truyền thống, nền tảng, mỹ thuật ứng dụng
Abstract: In the early decades of the twentieth century, the northern delta alone had 108 
jobs. Many villages also associate their names with the trade names, or place names of a region 
with jobs, these villages are more or less famous for a long time, with a history of hundreds 
of thousands of years, that village name goes down in history, folk songs, proverbs... become 
folklore heritage such as craft villages: La Xuyen wood carving village, Ha Thai painting village, 
Bat Trang pottery village, Phu Vinh rattan and bamboo village, Dong Ho painting village, Cat 
Dang optical painting village., Ha Dong silk village, Quat Dong embroidery village... Thus, 
the village is the place to preserve the traditional cultural values of the nation and the cultural 
foundations of applied art are those traditional cultural features. It can be said that the cultural 
foundations of applied art are traditional cultural traits of the nation, where the preserved and 
preserved places are Vietnamese villages. Therefore, the history of forming fi ne arts in our 
country cannot be separated from the process of forming craft villages.
Keywords: Craft villages, traditions, foundations, applied art
* Trường Đại học Mở Hà Nội
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 66 (4/2020) 115-24
16 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1. Đặt vấn đề
Trong suốt chiều dài lịch sử phát 
triển của dân tộc, xã hội Việt Nam luôn 
gắn liền với đời sống nông thôn. Làng 
là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ 
chức xã hội quan trọng của nông thôn Việt 
Nam cùng với hoạt động nông nghiệp và 
các nghề phụ. Làng là một hạt nhân của 
văn hoá, là nơi cụm cư những người ở khu 
vực nào đó di chuyển đến hoặc ở nhiều 
nơi cụm lại với nhau theo nghề nông, nghề 
thủ công. Qua quá trình ấy hình thành nếp 
sống, thói quen thành văn hoá Làng. 
Trong quá trình hàng ngàn năm lao 
động cần cù, bên cạnh nghề trồng lúa nước 
là cơ sở kinh tế chính, cha ông ta còn tạo 
ra nhiều nghề thủ công tinh xảo. Tên vùng 
châu thổ Bắc Bộ, bên cạnh số đông các 
làng thuần nông, còn có nhiều làng nghề 
thủ công, tại đó dân cư sống chủ yếu bằng 
một nghề hoặc nhiều nghề, có khi chỉ bằng 
một công đoạn của nghề và tạo ra nhưng 
sản phẩm độc đáo, mang tính đặc trưng 
của nghề, của làng nghề, của vùng nghề, 
trong đó có các làng thủ công mỹ nghệ.
2. Làng nghề truyền thống
2.1. Khái niệm làng nghề
Làng nghề Việt Nam, làng nghề thủ 
công, làng nghề truyền thống hoặc làng 
nghề cổ truyền thường được gọi ngắn gọn 
là làng nghề, là những làng mà tại đây hầu 
hết dân cư tập trung vào làm một nghề duy 
nhất nào đó, nghề của họ làm thường có 
tính chuyên sâu cao và mang lại nguồn thu 
nhập cho dân làng. 
Làng nghề truyền thống sản xuất 
ra những mặt hàng thủ công, những mặt 
hàng có tính mỹ nghệ, từ đó trở thành sản 
phẩm hàng hóa có quan hệ thông thương 
với thị trường trong nước và tiến tới mở 
rộng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. 
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm 
chính thống về “làng nghề”. theo giáo sư 
Trần Quốc Vượng thì “Làng nghề là một 
làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu 
nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số 
nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm 
mây tre, làm sơn, làm tranh... Trong đó nổi 
trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một 
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay 
bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ 
chức), có ông trùm, ông cả... cùng một số 
thợ và phú nhỏ, đã chuyên tâm, có quy 
trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử 
ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, 
sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản 
xuất ra những mặt hàng thủ công, những 
mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở 
thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp 
thị với một thị trường là vùng rộng xung 
quanh và với thị trường đô thị, tiến tới mở 
rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả 
nước ngoài”.
2.2. Đặc điểm của làng nghề 
Đặc điểm nổi bật nhất của các làng 
nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ 
với nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện 
trong từng làng - xã ở nông thôn sau đó 
các ngành nghề thủ công nghiệp được tách 
dần nhưng không rời khỏi nông thôn, sản 
xuất nông nghiệp và sản xuất - kinh doanh 
thủ công nghiệp trong các làng nghề đan 
xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước 
hết và đồng thời là người nông dân.
Hai là, công nghệ kỹ thuật sản xuất 
sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là 
các làng nghề truyền thống thường rất thô 
sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là 
chủ yếu. Công cụ lao động trong các làng 
17Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
nghề đa số l ... doanh nghiệp khởi 
nghiệp sáng tạo... tạo cơ hội đầu tư hấp 
dẫn và đẩy tiềm năng trong lĩnh vực công 
nghệ số và Internet đồng thời cũng là cơ 
hội lớn cho sản xuất công nghiệp với trình 
độ khoa học và công nghệ tiên tiến” [8].
Trong khi đó, công nghệ thông tin 
thay đổi đã phát sinh nhu cầu về nguồn 
nhân lực mỹ thuật đa phương tiện để phục 
vụ cho các công ty quảng cáo, Đài phát 
thanh, truyền hình, các tòa soạn, nhà xuất 
bản, công ty sản xuất phim, video, trò 
chơi, phần mềm, website... Mỗi một cuộc 
cách mạng công nghệ đều đem đến thay 
đổi về kỹ thuật, sản phẩm công nghệ phục 
vụ thị trường khác nhau. Điều này đòi hỏi 
các nhà thiết kế phải hiểu và có khả năng 
ứng dụng trong việc thiết kế sản phẩm. 
Trên thực tế, nhiều họa sĩ sử dụng các 
phần mềm kỹ thuật số như là một công cụ 
cần thiết để làm việc, khi sản phẩm thiết 
kế trên thị trường thay đổi như thiết kế 
game, app - ứng dụng (trên máy tính và 
điện thoại), sản phẩm mỹ thuật 3D... đã 
có sự phân cấp năng lực và thị trường từ 
nhân lực thiết kế. Do vậy, việc tự nâng cao 
chuyên môn, cập nhật các sản phẩm công 
nghệ và kỹ thuật mới để có thể thực hiện 
được các hợp đồng thiết kế theo nhu cầu 
xã hội hay không còn phụ thuộc vào nhu 
cầu tự thân của các họa sĩ.
3.2. Xây dựng phát triển các tác 
phẩm MTƯD
MTƯD là một trong những ngành 
nghề quan trọng góp phần vào sự nghiệp 
phát triển của đất nước, góp phần trang bị 
một cách cơ bản, toàn diện một số kỹ năng 
cho con người. Vai trò MTƯD là: 
- Thiết kế kiểu dáng sản phẩm. 
- Thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế 
hàng hóa. 
- Tạo dựng nền văn hóa thẩm mỹ và 
nhận thức xã hội.
- Tạo dựng bản sắc thương hiệu 
dân tộc.
Từ 1985 về trước đào tạo MTƯD 
chủ yếu là sáng tác thiết kế vẽ tay, sáng tác 
ra các sản phẩm nhưng không quan tâm 
nhiều đến địa chỉ nhận sản xuất và ứng 
dụng. Sau năm 1986, nền kinh tế mở cửa, 
đây cũng là lúc chuyển đổi mô hình kinh 
tế, và tạo cơ hội cho MTƯD có cơ hội phát 
triển. Từ thập kỷ 90 trở đi, các cơ sở đào 
tạo MTƯD bắt đầu bắt nhịp với cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 3 (3.0), sử dụng 
công nghệ thông tin, máy vi tính kết nối 
mạng internet. 
Bối cảnh đất nước đang đổi mới hội 
nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải chứng 
tỏ tài năng, tâm huyết của người nghệ 
sỹ, nghệ nhân, của nhà khoa học - cả dân 
tộc đang đòi hỏi những sản phẩm thiết 
kế MTƯD thể hiện đầy đủ cả trình độ tư 
tưởng, ý thức thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật... 
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học 
kỹ thuật hiện đại cũng góp phần thúc đẩy 
tương hỗ cho sự sáng tạo MTƯD.
21Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Việc định hướng đào tạo nguồn 
nhân lực MTƯD phải xuất phát từ những 
phân tích khoa học về xu thế phát triển 
kinh tế - xã hội và khoa học - công nghệ 
nói chung cũng như về sự phát triển của 
MTƯD nói riêng.
Hoạt động của MTƯD nói chung là 
một quá trình thể hiện sự kết hợp thống nhất 
và hài hòa các kiến thức kinh tế - xã hội - 
khoa học - kỹ thuật - văn hóa - nghệ thuật và 
tổ chức - quản lý. Người làm MTƯD phải 
hình dung được những ảnh hưởng về kinh 
tế - chính trị - xã hội, văn hóa và công nghệ 
chi phối vào sản phẩm của mình. Ngoài các 
cộng tác viên quen thuộc như các kỹ sư, các 
chuyên gia công nghệ, các nhà kinh tế, quản 
lý, các nghệ sĩ tạo hình, ngày nay MTƯD 
còn có quan hệ chặt chẽ với các chuyên gia 
xã hội học, tâm lý xã hội, văn hóa, tin học, 
bảo vệ môi trường v.v.
Sản phẩm MTƯD được tạo nên và 
tồn tại trong thời gian dài. Thiết kế là yếu 
tố quyết định kiểu dáng của sản phẩm. 
Không những thế nó còn có tầm quan 
trọng trong chính sách thương mại, đóng 
vai trò quyết định sự lớn mạnh của công 
ty. Vì vậy sự khác biệt duy nhất của sản 
phẩm trong cạnh tranh được nhờ vào hoạt 
động của MTƯD. Người làm MTƯD phải 
biết phân tích, dự đoán xu thế phát triển để 
tổng hợp và đưa ra các giải pháp đáp ứng 
yêu cầu phát triển. Điều đó đòi hỏi trình 
độ kiến thức của những người làm MTƯD 
phải đi trước một bước, phải đón trước sự 
phát triển của xã hội một cách chủ động.
 Như vậy, mục tiêu đào tạo nguồn 
nhân lực MTƯD là đào tạo con người có 
kiến thức và kỹ năng cao, có đạo đức, có 
kỷ luật, có trách nhiệm, có tư duy năng 
động, khả năng làm việc độc lập, có tinh 
thần hợp tác và khả năng tổ chức lao động, 
có thói quen tự học, tự nâng cao trình độ 
để có thể đáp ứng yêu cầu luôn luôn mới 
và có khả năng vươn lên những trình độ 
học vấn cao hơn khi cần thiết.
Để đạt được mục tiêu trên, các cơ sở 
đào tạo MTƯD phải được tổ chức theo mô 
hình mới, đa dạng hóa các loại hình đào 
tạo và chương trình học tập, bảo đảm cơ 
hội học tập mở rộng cho mọi người, ở bất 
cứ đâu, bất cứ lúc nào và với bất cứ hình 
thức nào trên cơ sở sử dụng rộng rãi và có 
hiệu quả công nghệ thông tin. Làm được 
điều đó thì nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ 
của người học được trang bị một cách cơ 
bản, và ngày càng hướng tới mục tiêu đào 
tạo toàn diện.
Khác với mô hình nhà trường truyền 
thống, ngày nay nhà trường phải là nơi 
học tập của nhiều lứa tuổi khác nhau với 
nhiều ngành nghề, trình độ và thời gian 
khác nhau. Khi công nghệ thông tin tạo 
điều kiện hình thành một cách rộng rãi các 
hệ thống cung cấp thông tin - tri thức thì 
tính độc quyền của nhà trường sẽ không 
còn và thay vào đó là một môi trường cạnh 
tranh lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo, 
các hình thức đào tạo, các phương pháp 
đào tạo v.v. nhằm một mục đích chung cao 
cả là nâng cao tri thức chung và tri thức 
chuyên ngành cho người học.
Học tập đi đôi với thực hành là cách 
thực tế nhất từ trước đến nay nền giáo dục 
nước ta hướng đến. Trong đào tạo MTƯD, 
việc học và hành này càng trở nên quan 
trọng. Các cơ sở đào tạo luôn hướng đến 
việc mở các xưởng thực hành để sinh viên 
có thể thực tập ngay sau những giờ học lý 
thuyết. 
Trong quá trình tiếp thu lý thuyết 
tại xưởng, sinh viên có điều kiện để thấy 
người thầy thị phạm, thao tác trên máy 
móc, thiết bị. Đây là những bài học từ 
22 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thực tế sinh động, giúp cho người học dễ 
nắm bắt kiến thức hơn là những bài giảng 
lý thuyết khô khan trên các giảng đường. 
Dạy và học hiện nay mang tính truyền bá 
kiến thức đại trà, do đó mô hình học tại 
xưởng hướng đến đào tạo từng con người 
về kỹ năng hành nghề. Trong quá trình 
học tại xưởng, các kỹ năng của sinh viên 
sẽ được bộc lộ và được tôi luyện. Được 
chứng kiến cách làm việc của các chuyên 
gia giúp cho sinh viên có những hứng thú 
trong công việc. Bởi lẽ, một hành vi sáng 
tạo nhiều khi gây nên niềm cảm hứng cho 
một hành vi sáng tạo khác.
Học tập gắn với thực tiễn, kết hợp 
tại các làng nghề truyền thống sản xuất 
sẽ mang lại lợi ích thiết thực. Những kiến 
thức mà sinh viên thu được xuất phát từ 
thực tế cuộc sống. Đó là những bài học 
sống động, bổ ích mà họ mang theo trong 
hành trang của mình sau khi tốt nghiệp.
3.3. Một số giải pháp phát triển 
MTƯD được xây dựng từ nền tảng làng 
nghề gốm, nghề mây tre đan
Có thể nói, hiện nay để sản phẩm 
các làng nghề truyền thống bắt kịp với xu 
thế phát triển của xã hội, thì MTƯD được 
nhận định là cứu cánh của các làng nghề 
trong cải tiến mẫu mã, chất lượng sản 
phẩm; tuy nhiên, việc đưa ưu điểm của mỹ 
thuật ứng dụng vào sản phẩm làng nghề 
rất gian nan [9].
Khu vực làng nghề hiện có rất nhiều 
sản phẩm độc đáo, cung cấp một lượng lớn 
hàng hóa cho xuất khẩu sản phẩm thủ công 
mỹ nghệ. Tuy vậy, sản phẩm của làng nghề 
hiện mới chỉ chiếm được thị trường giá rẻ, 
nên thu nhập của người dân làng nghề rất 
thấp. Bên cạnh đó, còn một số khó khăn cho 
phát triển nghề như không dự trữ nguyên 
liệu, phụ thuộc vào thương lái, chi phí đầu 
vào tăng cao. Công tác đào tạo cũng không 
thể thực hiện với quy mô lớn, bài bản; 
không có điều kiện mời các chuyên gia hay 
những người có thể hướng dẫn tổ chức sản 
xuất, kỹ năng làm thương mại. Cũng chính 
bởi thu nhập thấp, việc tìm kiếm thị trường 
của các làng nghề rất hạn chế.
Điều cần quan tâm nhất hiện nay vẫn 
là nâng giá trị của sản phẩm làng nghề. 
Muốn vậy, phải tập trung vào cải thiện 
thiết kế sản phẩm, trong đó yếu tố công 
nghệ và thẩm mỹ giữ vai trò chủ chốt. Về 
yếu tố thẩm mỹ, mỹ thuật ứng dụng sẽ tác 
động tới hình thức của sản phẩm khi giúp 
khai thác được vẻ đẹp nguyên liệu, thậm 
chí là tạo ra sự độc đáo từ nguyên liệu rất 
đơn giản và tính toán sao cho hình dáng 
sản phẩm đẹp, tiện dụng, kết cấu kỹ thuật 
cũng bền chắc hơn.
Đặc biệt, các họa sĩ MTƯD sẽ giúp 
sản phẩm làng nghề bắt kịp xu hướng màu 
sắc của thế giới theo từng năm, thậm chí 
từng mùa và có thể tạo ra những hoa văn 
mới để đưa vào sản phẩm, thể hiện rất rõ 
trong sản phẩm gốm, thêu...[9].
Có thể nói, mỹ thuật ứng dụng có khả 
năng tạo ra bước cải tiến lớn cho sản phẩm 
làng nghề. Tuy vậy, việc đưa mỹ thuật ứng 
dụng vào sản phẩm rất khó khăn. Khả năng 
thuê họa sỹ, nhà chuyên môn để đưa thẩm 
mỹ vào nghề thủ công không phải quá khó 
khăn, thiếu tài chính chỉ là một phần, chủ 
yếu do nhận thức. Rất nhiều chủ doanh 
nghiệp, nhất là doanh nghiệp thương mại 
hiện vẫn kinh doanh theo lối “dìm giá” để 
được hưởng lợi nhuận cao nhất có thể, như 
vậy sẽ không bao giờ có được sản phẩm 
đẹp. Tại các làng nghề hiện nay, rất hiếm 
doanh nghiệp táo bạo kinh doanh mặt hàng 
đặc biệt, độc đáo. Chính vì vậy, làng nghề 
không có cơ hội tạo ra những sản phẩm đẹp 
cho thị trường [9].
23Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Thông qua Triển lãm Mỹ thuật ứng 
dụng toàn quốc hay nhiều cuộc thi về 
thiết kế mẫu mã thủ công mỹ nghệ, có 
thể thấy khả năng của nghệ nhân ở làng 
nghề rất lớn. Mỗi năm, các nghệ nhân có 
thể tạo hàng nghìn mẫu mới, đẹp nhưng 
rất khó bán do không có khả năng tiếp 
cận những người có nhu cầu [9].
Sản phẩm MTƯD được xây dựng từ nền tảng làng nghề gốm, nghề mây tre đan
Hình 4. Sản phẩm MTƯD của tác giả bải viết 
được thực hiện tại làng gốm Phù Lãng 
Sản phẩm được trưng bày tại Triển lãm 
MTƯD toàn quốc năm 2019
Hình 5. Sản phẩm MTƯD của ThS Bùi Văn 
Long, Khoa Tạo dáng công nghiệp, được 
thực hiện tại làng gốm Phù Lãng năm 2019. 
Sản phẩm được trưng bày tại Triển lãm 
MTƯD toàn quốc năm 2019
Hình 6. Bài thiết kế MTƯD của sinh viên Khoa Tạo dáng công nghiệp, được thực hiện từ ý 
tưởng mây tre làng nghề Phú Vinh 
Sản phẩm được giải Khuyến khích giải thưởng SV nội thất năm 2019
Hình 7. Bộ sản phẩm MTƯD của sinh viên Khoa Tạo dáng công nghiệp, được thực hiện tại 
làng gốm Phù Lãng 
Sản phẩm được trưng bày tại Triển lãm Nghiêng 3, Khoa TDCN năm 2019.
24 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
4. Kết luận
Cùng với tiến bộ khoa học - công 
nghệ sản phẩm vật chất ngày càng nhiều, 
thì văn minh tinh thần, giá trị truyền thống, 
đạo đức có thể sẽ ngày càng giảm dần, 
điều này rất ảnh hưởng đến các nhà thiết 
kế trẻ khi chạy theo công nghệ phát triển ý 
tưởng sáng tạo nhanh nhưng sản phẩm của 
họ không còn đảm bảo được các yếu tố: 
hữu dụng, thẩm mỹ cao, tính dân tộc. Như 
vậy, những sản phẩm đó không thỏa mãn 
các điều kiện hữu dụng toàn diện về giá trị 
cao về mặt sử dụng, tính nghệ thuật hấp 
dẫn - đây là xu thế thời đại, vì chỉ những 
sản phẩm nào bộc lộ được rõ nét bản sắc 
dân tộc, ghi được dấu ấn tài năng và phong 
cách độc đáo của người thiết kế và có tính 
hội nhập cao mới được thị trường hiện đại 
toàn cầu chấp nhận. “Nếu không bắt kịp 
nhịp phát triển của thế giới và khu vực, 
Việt Nam sẽ phải đối mặt những thách 
thức như: tụt hậu về công nghệ, suy giảm 
sản xuất, kinh doanh; dư thừa lao động có 
kỹ năng và trình độ thấp, gây phá vỡ thị 
trường lao động truyền thống, ảnh hưởng 
tới kinh tế đất nước; mất an toàn, an ninh 
thông tin, xâm phạm bản quyền, thiếu hụt 
nguồn nhân lực trình độ cao. Đẩy công 
nghệ lạc hậu từ các nước phát triển sang 
các nước chậm phát triển” [8].
Những sản phẩm chất lượng cao, 
mang tính đặc trưng riêng, phục vụ hội họa 
cũng là một cách thức dù không hẳn giúp 
làng nghề phát triển đại trà trở lại. Ưu điểm 
của cách thức này là không cần phải phát 
triển ồ ạt, sản xuất ít, ít gây ô nhiễm môi 
trường nhưng mang lại giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên, dù phát triển theo kiểu 
đại trà hay theo hướng sản xuất ít mà hiệu 
quả kinh tế cao thì không thể phát triển tự 
phát, mà cần có sự kết hợp một cách lâu 
dài, bài bản hơn và có sự tham gia tích cực 
hơn của cơ quan quản lý nhà nước, đoàn 
hội để người làm nghề, dù đầu tư theo xu 
hướng nào cũng yên tâm hơn [10]./.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân 
tộc trong đào tạo văn hoá nghệ thuật (2002), 
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
[2]. Hoàng Minh Phúc, Hợp tác đào tạo và sử 
dụng nhân lực giữa cơ sở giáo dục và doanh 
nghiệp trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng - 
Một nhu cầu tất yếu trong giai đoạn hiện nay, 
Hội thảo Khoa học, Bộ Văn hoá, Thể thao và 
Du lịch và Trường Cao đẳng Mỹ thuật trang 
trí Đồng Nai, 2017, tr.76-82
[3]. Lâm Tô Lộc (2001), Truyền thống nghệ 
thuật và sự phát triển của nó về văn hoá, Nxb 
Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
[4]. Lịch sử Việt Nam, tập I (1971), Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Lan Hương, Vai trò của Mỹ thuật 
ứng dụng trong đời sống và trong đào tạo, 
Tạp chí khoa học và Đào tạo ĐH Công nghệ 
Sài Gòn, Số 01, 2018, tr.25-29.
[6]. Nguyễn Ngọc Dũng (1984), “Ba mươi năm 
đào tạo họa sĩ Mỹ thuật Công nghiệp”, Tạp chí 
Mỹ thuật Công nghiệp, số 2/15, tr. 9-13.
[7]. Nguyễn Ngọc Dũng, Bàn về thuật ngữ 
Design, Tlđd, tr.12.
[8]. Từ Mạnh Lương, Tác động của cuộc cách 
mạng công nghiệp 4.0 đối với lĩnh vực Văn 
hóa Nghệ thuật, Hội thảo khoa học, Bộ Văn 
hóa, Thể thao và Du lịch, 2018.
[9]. Việt Nga (20190, “Mỹ thuật ứng dụng: 
Cải thiện mẫu mã sản phẩm làng nghề”, báo 
Công thương.
[10]. “Đánh thức” làng nghề truyền thống nhờ 
mỹ thuật (2019), báo Công an nhân dân, Hà Nội.
Địa chỉ tác giả: Khoa Tạo dáng công nghiệp, 
Trường Đại học Mở Hà Nội
Email: huongnguyentdcn@hou.edu.vn

File đính kèm:

  • pdflang_nghe_truyen_thong_nen_tang_de_xay_dung_phat_trien_cac_t.pdf