Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, Kinh tế đối ngoại là hoạt động tất yếu khách quan đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho sự phát triển của các nước đang phát triển, có nền kinh tế mở cửa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập
1 VNH3.TB5.170 HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI - ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THỜI KÌ HỘI NHẬP Nguyễn Trọng Minh Trường Đại học Sư phạm Đồng Tháp Đặt vấn đề Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, Kinh tế đối ngoại là hoạt động tất yếu khách quan đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho sự phát triển của các nước đang phát triển, có nền kinh tế mở cửa. Đối với Việt Nam hoạt động kinh tế đối ngoại hiện tại là kết quả của quá trình mở cửa hơn 20 năm, là động lực phát triển kinh tế trong thời kì hội nhập mới. Bởi hoạt động này làm rút ngắn khoảng cách hội nhập kinh tế của Việt Nam với những nội dung phát triển toàn diện của nó. Lịch sử đã chứng minh nhiều nước trên thế giới và khu vực đã phát triển nền kinh tế thành công bằng con đường kinh tế đối ngoại với chính sách mở cửa - khoan dung hơn là đóng cửa cô lập và đố kị - nghi ngờ. Điển hình ở Đông Bắc Á; Nhật bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, một số nước ASEAN như Singapore, Thái Lanthông qua hoạt động hướng ngoại của mình đã nhanh chóng phát triển trở thành những “con rồng kinh tế”. Từ kinh nghiệm của các nước, trước và khi tham gia hội nhập WTO, Việt Nam đang tổ chức, sắp xếp lại nền kinh tế và hướng nền kinh tế ra bên ngoài để tìm một “cú hích” mạnh về tài chính, hợp tác chuyển giao công nghệ - khoa học kĩ thuật, hướng xuất khẩu nhằm đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cho nên,Việt Nam xem mục tiêu kinh tế đối ngoại là mục tiêu chiến lược - động lực phát triển tất yếu. Trong đó, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng kinh tế lớn, vùng đã và đang trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại với những cơ hội - thách thức của riêng mình. Do đó, đối với ĐBSCL, hoạt động kinh tế đối ngoại của vùng cần được nghiên cứu với những vấn đề khoa học đang quan tâm. 1. Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL là vùng kinh tế trọng điểm của nước ta. Nó đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của dân tộc trong lịch sử cũng như hiện tại. Vùng có 13 tỉnh thành, chiếm 22% dân số cả nước (17,4 triệu dân) với mật độ dân số trên 400 người/km2. Một cộng đồng dân cư văn hoá, lịch sử, kinh tế - xã hội đặc trưng 2 ĐBSCL là vùng địa lí, lịch sử văn hoá đặc sắc, một không gian văn hoá xã hội mang đặc trưng của cộng đồng đa tộc người, (Kinh -Hoa - Khơme - Chăm...), đa tôn giáo. Đó là một quần thể văn hoá đa dạng, đầy sức sống...phong cách ứng xử tự do, sáng tạo. Đây là yếu tố đặc thù quan trọng nó tác động chính cũng như qui định các mối quan hệ giao lưu và ứng xử trong tất cả các lãnh vực của dân ĐBSCL từ khi mở cõi. Vùng có nền kinh tế nông nghiệp mang màu sắc “khẩn hoang”; các loại hình kinh tế đa dạng: kinh tế biển, kinh tế rừng, chủ yếu là nông nghiệp vùng gặp lũ. Vùng tiềm năng kinh tế đa dạng - Nguồn tài nguyên thiên nhiên: Nằm ở hạ lưu sông Mêkông, ĐBSCL có nguồn đất đai màu mỡ phù sa, với hệ sinh thái và thảm thực vật nhiệt đới, phong phú và đa dạng. Vùng có hệ thống sông ngòi chằng chịt với dòng chảy khá ổn định là cơ sở phát triển giao thông thuỷ và cảng sông và cảng biển quốc tế. - Nông nghiệp: chiếm 47,5% diện tích đất nông nghiệp cả nước; trong đó đất trồng lúa 1,9 triệu ha chiếm 44,5 % đất trồng lúa cả nước. Ngành luôn được quan tâm phát triển và ngành đã có những đóng góp quan trọng trong thu nhập nguồn ngoại tệ, nhưng khi tham gia vào WTO, chắn chắn ngành sẽ gặp những trở ngại lớn như: năng lực cạnh tranh về chất lượng, chi phí sản xuất và cả sự đa dạng của sản phẩm - Ngành thuỷ hải sản, diện tích đất thuỷ hải sản có 750.333 ha trong đó 500.000 ha nước ngọt, tuy đã có những bước phát triển quan trọng đóng góp vào ngoại thương Việt Nam nhưng vẫn còn những hạn chế lớn. - Nguồn tài nguyên xã hội: ĐBSCL có lực lượng lao động khá dồi dào, có số người ở độ tuổi lao động hơn 50% dân số trong vùng (60% là từ 18- 30). Đó là một thuận lợi rất quan trọng để ĐBSCL đẩy nhanh nền sản xuất của vùng, song nguồn tài nguyên này đa chứa những mâu thuẫn lớn; sức lao động dồi dào với trình độ thấp, đa số họ chưa được đào tạo nghiệp vụ và kĩ thuật. Nguồn lực lao động của ĐBSCL còn ở dạng tiềm năng. -Về tình hình cơ cấu kinh tế của vùng có sự chuyển dịch rất chậm giữa các nhóm: nhóm I nhóm II, Nhóm III, cho thấy khả năng phát triển chất lượng của nền kinh tế phát triển chậm. Bảng 1: Cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL (1995- 2005) Nguồn [1] Cơ cấu kinh tế (%) 1995 2000 2002 2005 (ước) Nhóm I 61,88 51,38 49,08 49,01 Nhóm II 11,70 19,60 21,04 21,09 Nhóm III 21,32 29,02 29,88 29,90 3 - Về tốc độ tăng trưởng GDP của vùng năm 2001- 2005 ước đạt hơn 9,6% [2], song chủ yếu từ ngành nông nghiệp, mặc dù phát triển cao nhưng tiền đề cho phát triển bức phá và hội nhập còn yếu kém và các khó khăn chung đang đối mặt đang lớn dần lên. Từ những nét trên cho thấy ĐBSCL chứa những nguồn tài nguyên kinh tế - xã hội dồi dào từ rất sớm. Mặc dù có đầy đủ những yếu tố nổi bật, lợi thế so sánh để phát triển toàn diện, song sau hơn 30 năm khi đất nước thống nhất, ĐBSCL vẫn ẩn chứa những mâu thuẫn của vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển, trong đó chủ yếu là vấn đề: giữa một bên tài nguyên dồi dào, kinh tế năng động với bên là người lao động trình độ thấp, trẻ em bỏ học nhiều tăng trưởng kinh tế của vùng chưa gắn với sự tiến bộ xã hội. 2. Thực trạng hoạt động kinh tế đối ngoại ở đồng bằng sông Cửu Long Hoạt động kinh tế đối ngoại được hiểu là những hoạt động về hợp tác đầu tư với nước ngoài gồm các hoạt động thu hút nguồn đầu tư (FDI, ODA), ngoại thương xuất - nhập khẩu, các hoạt động dịch vụ du lịch, phân công lao động quốc tế, vận tải,... và các hoạt động hợp tác khoa học và chuyển giao công nghệ với nước ngoài. Ở ĐBSCL, hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ được khởi động thực sự trong gần 10 năm qua, hoạt động này đã đóng góp nhất định trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống người dân của vùng cũng như đã thu được một nguồn ngoại tệ quan trọng trong việc phát triển ng ... xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiêu quả” [7] 7 3. Hoạt động kinh tế đối ngoại - nhu cầu tất yếu của sự phát triển ĐBSCL trong thời kì hội nhập Hoạt động kinh tế đối ngoại - Động lực phát triển của ĐBSCL vì nó đáp ứng được các nội dung động lực của một vùng kinh tế năng động của vùng trong giai đoan mới. Tầm quan trọng của việc thu hút nguồn đầu tư nước ngoài Thu hút nguồn đầu tư, việc thu hút đầu tư nước ngoài trong đó chủ yếu là nguồn vốn FDI, ODA, trong đó FDI là nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, vì FDI là kinh tư bản du nhập không phát sinh nợ, là động cơ duy nhất để khởi động nền kinh tế của các nước, vùng lãnh thổ có nhiều tiềm năng cần khai thác như trường hợp ĐBSCL. Khi thu hút được nguồn FDI cần thiết, ĐBSCL sẽ có vốn đầu tư vào sản xuất thông qua các doanh nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài, các dự án liên doanh đây là một lợi ích quan trọng. Nó làm tăng việc làm và tăng mức lương của lao động; tạo cơ hội cho hơn 10 triệu lao động trong vùng tìm được việc làm trong thời gian tới với mức lương phù hợp; tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương thông qua thu nhập tư bản nước ngoài tại vùng. Lợi ích đáng kể tiếp theo là chuyển giao công nghệ, điều này dễ thấy nhất trong các trường hợp thành lập các công ty liên doanh giữa một công ty nước phát triển với công ty của ĐBSCL. Việc chuyển giao này nó diễn ra theo hai dạng “dạng hẹp” và “dạng rộng”: dạng hẹp như dữ kiện, dữ liệu về các sản phẩm hay phương thức kĩ thuật thường được ghi lại rõ ràng; dạng rộng không dễ ghi chép được chẳng hạn như bí quyết tổ chức, mới là quan trọng. Thông qua lợi ích này người lao động ĐBSCL còn được chuyển giao công nghệ bằng hình thức gián tiếp và trực tiếp hợp tác đào tạo nâng cao tay nghề, tu nghiệp chính thức ở nước đầu tư. Và đây là khả năng có thể thành công nhất của vùng vì ĐBSCL đang phát triển chiến lược thay thế nhập khẩu. Bên cạnh, còn lợi ích khác là một phần chi tiêu ngân sách của vùng có thể khuyến khích dòng vào của vốn đầu tư nước ngoài, là dùng nhân lực để phát triển một hệ thống pháp luật và các dịch vụ hành chính công bằng và hiệu quả hơn. Vì thông qua hệ thống này, các nhà đầu tư thực hiện các hợp đồng liên doanh, đầu tư, thương vụ một cách hiệu quả nếu nhận được sự ủng hộ của hệ thống hành chính, cố vấn, dịch vụ pháp luật địa phương ĐBSCL. ĐBSCL cần nguồn đầu tư nước ngoài để làm gì? Trong bài phát biểu tại Hội thảo “Vì sự phát triển ĐBSCL” (11/2004), ông Sáu Hậu, Tổ tư vấn Ban chỉ đạo Tây Nam bộ khẳng định: “Thực trạng kinh tế ở ĐBSCL đã tụt hậu so với một số vùng trong cả nước” và đã kết luận “ Nên chọn khâu xây dựng cơ sở hạ tầng làm khâu đột phá”. Và theo hoạch tổng thể của bộ Kế hoạch và Đầu tư, ĐBSCL cần 6 tỷ USD để thực hiện các mục tiêu phát triển cơ sở hạng tầng kĩ thuật giai đoạn 1995 - 2000 và 28,1 tỷ USD giai đoạn 2001 -2010 [8] Trước hết, cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật kinh tế là vấn đề được đặt lên hàng đầu ở ĐBSCL, để thực hiện được điều này thì ĐBSCL cần một nguồn vốn rất lớn. Đây là 8 vấn đề không thể giải quyết một sớm một chiều bằng nguồn ngân sách và vốn nội địa, cho nên vùng đang cần các nguồn đầu tư từ bên ngoài với các hình thức chủ yếu: FDI, ODA. Trước hết nhằm để ĐBSCL cải tạo hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật kinh tế; cụ thể: các khu cơ sở hạ tầng công nghiệp tập trung mới, xây dựng các công trình liên quan đến dịch vụ giao thông, vận tải nội và quốc tế đặt ở trung tâm của Vùng là TP. Cần thơ. Tiếp theo, ĐBSCL cần nguồn FDI để tăng số lượng các nhà máy và mở rộng diện tích các khu công nghiệp, đáp ứng tiềm năng khai thác và sử dụng nguyên liệu nông nghiệp của vùng. Nhất là các nhà máy chế biến: nông- thuỷ - hải sản phục vụ cho xuất khẩu, một lợi thế so sánh quan trọng hiện nay ĐBSCL đang có khả năng phát triển mạnh nhất nước. Do đó, cần các nguồn đầu tư nước ngoài để mở rộng qui mô hạ tầng kĩ thuật phục vụ các ngành sản xuất trên vùng là nhu cầu tất yếu để đáp ứng nhu cầu về khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên, để thực hiện chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu. Đầu tư nước ngoài với thương mại và dịch vụ khác Chất lượng hoạt động thương mại của ĐBSCL sẽ tăng nhanh và tỷ lệ thuận với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi vì đây là mục đích chính, là kết quả của sự đầu tư hiệu quả của các nhà đầu nước ngoài và các địa phương đặt ra khi quyết định thực hiện các dự án, và rất phù hợp với điều kiện của vùng nguyên liệu lớn như ĐBSCL. Nếu như trong thời gian qua, nông sản đến mùa thu hoạch với một số lượng lớn thì khâu bảo quản và chế biến gặp khó khăn thì khi hội nhập kinh tế, vùng được đầu tư với số lượng các nhà máy chế biến sẽ giải quyết được nổi lo được mùa - mất giá của nông dân trong vùng. Các năm qua, lãnh vực có FDI đã đóng góp quan trọng vào xuất khẩu của nước ta, nhưng ở ĐBSCL thì đóng góp của lãnh vực có FDI chỉ ở dạng tiềm năng. Cho nên, khi ĐBSCL thu hút được FDI đáng kể, nó sẽ trở thành lực động chính giúp vùng nâng chất lượng ngoại thương và các dịch vụ liên quan khác như đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch, vận tải quốc tế 4. Một vài ý kiến Làm gì để đẩy nhanh thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài vào ĐBSCL, các vấn đề chung cần đặt ra: - Sự tiếp tục ổn định chính trị của vùng; - Luật lệ hành chính và thuế khoá; - Các phí tổn giao dịch trong thương nghiệp; - Sự dễ dàng trong việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; và Cách giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa các nhà đầu tư và địa phương (nước chủ nhà Việt Nam). Về phía Chính phủ, cần đẩy nhanh hoàn chỉnh các định chế pháp luật; luật đầu tư nước ngoài, luật thương mại, cơ chế quản lí minh bạch, hỗ trợ các địa phương xây dựng cơ sở hạng tầng kĩ thuật chuẩn quốc tế, xây dựng - quy họach các chiến lược phát triển khoa học và đào 9 tạo cán bộ quản lí có trình độ ngang tầm quốc tế để phục vụ tốt các hoạt động hỗ trợ các dịch vụ pháp lí liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại của ĐBSCL và khu vực phía Nam, và đặc biệt là chính phủ và nhà nước đẩy nhanh tiến độ cải cách giáo dục và xây dựng hệ thống giáo dục cơ bản gắn với đào tạo nghề, lao động kĩ thuật lành nghề chất lượng. Về phía Chính quyền các địa phương trong vùng ĐBSCL Theo chúng tôi, ngoài các nhóm giải pháp của Bộ Kế hoạch - Đầu tư đưa ra để thút đẩy việc thu hút và kêu gọi đầu tư từ nước ngoài, ở mỗi địa phương cần quan tâm cụ thể các vấn đề sau: - Tiếp tục thực hiện các nghị quyết số 09/2001/NQ-CP ngày 28/08/01, và chỉ thị số 19/ 2001/CT-TTG của Chính Phủ, về việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài, song song chính quyền các địa phương vùng ĐBSCL cần xây dựng các mục tiêu cụ thể trong điều kiện của vùng. - Nắm bắt các cơ hội, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại tổng thể cho ĐBSCL, một chiến lược phát triển khách quan - khoa học có thể phát triển, nó phải thực sự kích thích được các nhà đầu tư quan tâm và quyết định đầu tư. Nó phải xuất phát từ tâm huyết nhà lãnh đạo có tư duy hội nhập và tính cách quyết đoán. Đối với từng tỉnh trong vùng, chính quyền địa phương cần xây dựng một chiến lược kêu gọi đầu hợp lí, dựa lợi thế đặc trưng nổi bật của mình với những danh mục ưu tiên đầu tư và chính sách thuế minh bạch, phát động chiến dịch quản bá ra bên ngoài bằng các kênh truyền thông rộng rãi và hiệu quả (quảng cáo truyền hình ASEAN, world wide web, MASS Media...), điều này ĐBSCL nên học tập các tỉnh, thành vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như Bình Dương, Tp. HCM ĐBSCL cần chú trọng đẩy nhanh xã hội hoá các dự án quá tầm về tài chính, kĩ thuật, hướng đến vận động và sử dụng “nguồn tài sản thứ ba” - Thái độ ứng xử mới, xuất phát từ mục tiêu là nắm bắt cơ hội để phát triển kinh tế, chính quyền các địa phương cần đổi mới tư duy ứng xử hành chính, cải cách hành chính. Đặc biệt là đội ngũ nhân viên phục vụ các hoạt động kinh tế đối ngoại phải được đào tạo cho phù hợp với nhu cầu hội nhập kinh tế (chính quy, khoa học, tư duy hội nhập, tính quốc tế). Các địa phương phải xem việc thu hút được nhiều nguồn vốn bên ngoài qua kênh FDI và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác trên địa phương là mục đích, động lực phát triển kinh tế quan trọng để từ đó tiến hành điều chỉnh các hoạt động cũng như hành xử tốt với đối tác - nhà đầu tư nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nhà đầu tư và chính quyền địa phương. - Chiến lược nguồn nhân lực, là một tác nhân quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hội nhập và hoạt động kinh tế đối ngoại của ĐBSCL. Từ thực trạng trên đã cho thấy vùng cần có cuộc cách mạng chất luợng nguồn tài nguyên này. Về quan điểm, vùng cần phải xem “đào tạo nguồn lực cho các doanh nghiệp FDI cũng là đào tạo nguồn lực cho ta”. Vì hoạt động của các dự án FDI - ngoại lực sẽ kích thích nội lực - nền sản xuất nội địa phát triển, cho nên cần phải quan tâm đến đào tạo nguồn tài nguyên kinh tế quan trọng này. Với các yêu cầu sau: thứ nhất, ĐBSCL tăng cường phát triển thực sự giáo dục cơ bản (basic education), giáo dục phổ thông nông thôn để tạo điều kiện cho lao động nông nghiệp di 10 chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Tiếp theo, ĐBSCL phải xây dựng Tp Cần Thơ thành trung tâm khoa học- công nghệ có chất lượng xứng tầm để đáp ứng những dịch vụ đào tạo nguồn nhân lực trong vùng. Để thành công, các địa phương xây dựng một chiến lược cụ thể về đào tạo và sử dụng nguồn lao trẻ có trình độ lao động lành nghề, phù hợp - hiện đại và kĩ thuật cao, trong đó tập trung hiện đại hóa các cơ sở dạy nghề và “phải dạy nghề cho ra dạy nghề”. Và tiếp tục phát triển các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế như chương trình Mêkông 1000, xúc tiến liên kết Singapore, Hà Lan, Pháp, và phải minh bạch trong xây dựng và đào tạo nguồn theo các dự án đào tạo tại nước ngoài. - Môi sinh tương lai, để tiến bộ xã hội của ĐBSCL ngang tầm với sự tăng trưởng kinh tế thì vấn đề môi trường sinh thái ở ĐBSCL phải được đặt ra ngay từ bây giờ. Vì hiện nay, môi trường và ô nhiễm của vùng đã được báo động, cho nên khi tiến hành xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại các địa phương cần lập kế hoạch bảo vệ môi sinh một cách khoa học. Trong đó quan tâm hàng đầu là việc xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật và xử lí chất thải công nghiệp ra môi trường, khu công nghiệp và các khu an sinh công nghiệp (khu nhà ở, dịch vụ y tế, sinh hoạt xã hội cho công nhân). Về vấn đề này, cần học tập kinh nghiệm của các nước như Singapore, Hàn Quốc, để giảm thiểu tối đa những vấn đề về ô nhiễm môi trường và an sinh khu công nghiệp, họ đã đặt vấn đề này lên hàng đầu khi quyết định quy hoạch các dự án khu công nghiệp, và bắt buột các chủ đầu tư nước ngoài cùng chính quyền địa phương phối hợp quy hoạch, xây dựng để sử dụng ngay các khu an sinh công nghiệp khi khu công nghiệp bước vào hoạt động. Bên cạnh, khi tiếp nhận và chuyển giao phương tiện, công nghệ sản xuất bên ngoài (dây chuyền sản xuất) trong các dự án công nghiệp cần tiếp chọn theo hướng yêu cầu hiện đại để bảo vệ môi sinh tương lai. Từ những tác động của hoạt động kinh tế đối ngoại đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam những năm qua và nhu cầu phát triển kinh tế bền vững của ĐBSCL tương lai, có thể khẳng định ĐBSCL đang cần tìm một “cú hích” thực sự từ bên ngoài bằng hoạt động kinh tế đối ngoại để phát triển và khẳng định mình trong thời kì hội nhập mới. Kết luận Bài viết đề cập các hoạt động kinh tế đối ngoại nổi bật đang diễn ra ở ĐBSCL, phân tích một số thực trạng về hoạt động trong vùng. Trong đó một phần phân tích những yếu tố tích cực và hạn chế của nó ở góc độ vùng. Và trước những đóng góp đáng kể trong các năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại của ĐBSCL còn những đóng góp quan trọng hơn nữa, nó sẽ là động lực cho sự phát triển của vùng khi nó phát triển hoàn chỉnh với những nội dung của nó. Và phần sau cuối chúng tôi cố gắng thử đề xuất một vài ý kiến để hoạt động kinh tế đối ngoại của vùng được phát triển đầy đủ. Để hoạt động kinh tế đối ngoại trở thành động lực thúc đẩy phát triển thì ĐBSCL nhanh chóng cải thiện chất lượng và đào tạo mới nguồn nhân lực, cũng như thay đổi tư duy, cách ứng xử hành chính cho phù hợp với yêu nhu cầu của hoạt động kinh tế đối ngoại. Hiện nay, ngoài những lợi thế so sánh truyền thống của ĐBSCL đang có, thì nhà đầu tư quốc tế đang quan tâm tới khả năng thu hút khác là lợi thế về chi phí vận chuyển, cơ hội mậu dịch, 11 lao động chất lượngDo đó ĐBSCL phải nhanh chóng xây dựng những chiến lược phát triển cho phù hợp với xu thế mới và phải hoàn thiện hệ thống thông tin và tổ chức. Khi đó, chúng ta có thể hi vọng rằng ĐBSCL sẽ tận dụng điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lí, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng tỉ trong xuất khẩu các sản phẩm chế biến các giá trị cao, mang tính đặc thù, và chủ động tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế biến. 12 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Tổng cục thống Kê, Niên Giám thống kê 2005, năm 2006. [2] Tác giả tổng hợp từ nguồn các Cục thống kê của ĐBSCL, năm 2005 [3] Tạp chí Khu công nghiệp VN tháng 1/2007 [4] Nguồn Tổng cục thống Kê, Niên Giám thống kê 2006, năm 2007 [5] Tác giả tổng kết từ các Sở LĐTB -XH các tỉnh trong vùng ĐBSCL, năm 2007 [6] Ủy Ban ND tỉnh Kiên Giang, Báo cáo sơ kết công tác du lịch 02 năm 2006 - 2007 theo nghị quyết 02 và 08- NQ/TU của tỉnh ủy Kiên Giang, 12/2007 [7] Đảng cộng sản, Văn kiện Đại Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, tr 84 [8] Xem thêm, Bộ kế Hoạch và Đầu tư, Qui Hoach tổng thể các vùng KT VN/ vùng đồng bằng sông Cửu Long (website Bộ KH& ĐT- Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Trọng Minh, Khoa Giáo dục chính trị, Trường Đại học Sư phạm Đồng Tháp. Số 783, Phạm Hữu Lầu, Phường 6. Tp. Cao Lãnh, Đồng Tháp. DĐ: 091.315.85.12, Email: trongminh1176@gmail.com
File đính kèm:
- hoat_dong_kinh_te_doi_ngoai_dong_luc_phat_trien_dong_bang_so.pdf