Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, Kinh tế đối ngoại là hoạt động tất yếu khách quan đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho sự phát triển của các nước đang phát triển, có nền kinh tế mở cửa.

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 1

Trang 1

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 2

Trang 2

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 3

Trang 3

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 4

Trang 4

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 5

Trang 5

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 6

Trang 6

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 7

Trang 7

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 8

Trang 8

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 9

Trang 9

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang Danh Thịnh 11/01/2024 2840
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập

Hoạt động kinh tế đối ngoại - động lực phát triển đồng bằng sông Cửu Long thời kì hội nhập
 1
VNH3.TB5.170 
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI - ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN 
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THỜI KÌ HỘI NHẬP 
Nguyễn Trọng Minh 
Trường Đại học Sư phạm Đồng Tháp 
Đặt vấn đề 
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, Kinh tế đối ngoại là hoạt động tất yếu 
khách quan đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho sự phát triển 
của các nước đang phát triển, có nền kinh tế mở cửa. Đối với Việt Nam hoạt động kinh tế 
đối ngoại hiện tại là kết quả của quá trình mở cửa hơn 20 năm, là động lực phát triển kinh tế 
trong thời kì hội nhập mới. Bởi hoạt động này làm rút ngắn khoảng cách hội nhập kinh tế 
của Việt Nam với những nội dung phát triển toàn diện của nó. 
Lịch sử đã chứng minh nhiều nước trên thế giới và khu vực đã phát triển nền kinh tế 
thành công bằng con đường kinh tế đối ngoại với chính sách mở cửa - khoan dung hơn là 
đóng cửa cô lập và đố kị - nghi ngờ. Điển hình ở Đông Bắc Á; Nhật bản, Hàn Quốc, Trung 
Quốc, một số nước ASEAN như Singapore, Thái Lanthông qua hoạt động hướng ngoại 
của mình đã nhanh chóng phát triển trở thành những “con rồng kinh tế”. 
Từ kinh nghiệm của các nước, trước và khi tham gia hội nhập WTO, Việt Nam đang 
tổ chức, sắp xếp lại nền kinh tế và hướng nền kinh tế ra bên ngoài để tìm một “cú hích” 
mạnh về tài chính, hợp tác chuyển giao công nghệ - khoa học kĩ thuật, hướng xuất khẩu 
nhằm đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cho nên,Việt Nam xem 
mục tiêu kinh tế đối ngoại là mục tiêu chiến lược - động lực phát triển tất yếu. Trong đó, 
đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng kinh tế lớn, vùng đã và đang trực tiếp tham gia 
vào hoạt động kinh tế đối ngoại với những cơ hội - thách thức của riêng mình. Do đó, đối 
với ĐBSCL, hoạt động kinh tế đối ngoại của vùng cần được nghiên cứu với những vấn đề 
khoa học đang quan tâm. 
1. Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long 
ĐBSCL là vùng kinh tế trọng điểm của nước ta. Nó đóng vai trò quan trọng trong sự 
phát triển bền vững của dân tộc trong lịch sử cũng như hiện tại. Vùng có 13 tỉnh thành, 
chiếm 22% dân số cả nước (17,4 triệu dân) với mật độ dân số trên 400 người/km2. 
Một cộng đồng dân cư văn hoá, lịch sử, kinh tế - xã hội đặc trưng 
 2
ĐBSCL là vùng địa lí, lịch sử văn hoá đặc sắc, một không gian văn hoá xã hội mang 
đặc trưng của cộng đồng đa tộc người, (Kinh -Hoa - Khơme - Chăm...), đa tôn giáo. Đó là 
một quần thể văn hoá đa dạng, đầy sức sống...phong cách ứng xử tự do, sáng tạo. Đây là 
yếu tố đặc thù quan trọng nó tác động chính cũng như qui định các mối quan hệ giao lưu và 
ứng xử trong tất cả các lãnh vực của dân ĐBSCL từ khi mở cõi. Vùng có nền kinh tế nông 
nghiệp mang màu sắc “khẩn hoang”; các loại hình kinh tế đa dạng: kinh tế biển, kinh tế 
rừng, chủ yếu là nông nghiệp vùng gặp lũ. 
Vùng tiềm năng kinh tế đa dạng 
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên: Nằm ở hạ lưu sông Mêkông, ĐBSCL có nguồn đất 
đai màu mỡ phù sa, với hệ sinh thái và thảm thực vật nhiệt đới, phong phú và đa dạng. Vùng 
có hệ thống sông ngòi chằng chịt với dòng chảy khá ổn định là cơ sở phát triển giao thông 
thuỷ và cảng sông và cảng biển quốc tế. 
- Nông nghiệp: chiếm 47,5% diện tích đất nông nghiệp cả nước; trong đó đất trồng 
lúa 1,9 triệu ha chiếm 44,5 % đất trồng lúa cả nước. Ngành luôn được quan tâm phát triển 
và ngành đã có những đóng góp quan trọng trong thu nhập nguồn ngoại tệ, nhưng khi tham 
gia vào WTO, chắn chắn ngành sẽ gặp những trở ngại lớn như: năng lực cạnh tranh về chất 
lượng, chi phí sản xuất và cả sự đa dạng của sản phẩm 
- Ngành thuỷ hải sản, diện tích đất thuỷ hải sản có 750.333 ha trong đó 500.000 ha 
nước ngọt, tuy đã có những bước phát triển quan trọng đóng góp vào ngoại thương Việt 
Nam nhưng vẫn còn những hạn chế lớn. 
- Nguồn tài nguyên xã hội: ĐBSCL có lực lượng lao động khá dồi dào, có số người ở 
độ tuổi lao động hơn 50% dân số trong vùng (60% là từ 18- 30). Đó là một thuận lợi rất 
quan trọng để ĐBSCL đẩy nhanh nền sản xuất của vùng, song nguồn tài nguyên này đa 
chứa những mâu thuẫn lớn; sức lao động dồi dào với trình độ thấp, đa số họ chưa được đào 
tạo nghiệp vụ và kĩ thuật. Nguồn lực lao động của ĐBSCL còn ở dạng tiềm năng. 
-Về tình hình cơ cấu kinh tế của vùng có sự chuyển dịch rất chậm giữa các nhóm: 
nhóm I nhóm II, Nhóm III, cho thấy khả năng phát triển chất lượng của nền kinh tế phát 
triển chậm. 
Bảng 1: Cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL (1995- 2005) Nguồn [1] 
Cơ cấu kinh tế 
(%) 
1995 2000 2002 2005 (ước) 
Nhóm I 61,88 51,38 49,08 49,01 
Nhóm II 11,70 19,60 21,04 21,09 
Nhóm III 21,32 29,02 29,88 29,90 
 3
- Về tốc độ tăng trưởng GDP của vùng năm 2001- 2005 ước đạt hơn 9,6% [2], song 
chủ yếu từ ngành nông nghiệp, mặc dù phát triển cao nhưng tiền đề cho phát triển bức phá 
và hội nhập còn yếu kém và các khó khăn chung đang đối mặt đang lớn dần lên. 
Từ những nét trên cho thấy ĐBSCL chứa những nguồn tài nguyên kinh tế - xã hội 
dồi dào từ rất sớm. Mặc dù có đầy đủ những yếu tố nổi bật, lợi thế so sánh để phát triển toàn 
diện, song sau hơn 30 năm khi đất nước thống nhất, ĐBSCL vẫn ẩn chứa những mâu thuẫn 
của vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển, trong đó chủ yếu là vấn đề: giữa một bên tài 
nguyên dồi dào, kinh tế năng động với bên là người lao động trình độ thấp, trẻ em bỏ học 
nhiều tăng trưởng kinh tế của vùng chưa gắn với sự tiến bộ xã hội. 
2. Thực trạng hoạt động kinh tế đối ngoại ở đồng bằng sông Cửu Long 
Hoạt động kinh tế đối ngoại được hiểu là những hoạt động về hợp tác đầu tư với 
nước ngoài gồm các hoạt động thu hút nguồn đầu tư (FDI, ODA), ngoại thương xuất - nhập 
khẩu, các hoạt động dịch vụ du lịch, phân công lao động quốc tế, vận tải,... và các hoạt động 
hợp tác khoa học và chuyển giao công nghệ với nước ngoài. 
Ở ĐBSCL, hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ được khởi động thực sự trong gần 10 năm 
qua, hoạt động này đã đóng góp nhất định trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống người 
dân của vùng cũng như đã thu được một nguồn ngoại tệ quan trọng trong việc phát triển 
ng ... xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm 
trong nước sản xuất có hiêu quả” [7] 
 7
3. Hoạt động kinh tế đối ngoại - nhu cầu tất yếu của sự phát triển ĐBSCL trong 
thời kì hội nhập 
Hoạt động kinh tế đối ngoại - Động lực phát triển của ĐBSCL vì nó đáp ứng được 
các nội dung động lực của một vùng kinh tế năng động của vùng trong giai đoan mới. 
Tầm quan trọng của việc thu hút nguồn đầu tư nước ngoài 
Thu hút nguồn đầu tư, việc thu hút đầu tư nước ngoài trong đó chủ yếu là nguồn vốn 
FDI, ODA, trong đó FDI là nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, vì FDI là kinh 
tư bản du nhập không phát sinh nợ, là động cơ duy nhất để khởi động nền kinh tế của các 
nước, vùng lãnh thổ có nhiều tiềm năng cần khai thác như trường hợp ĐBSCL. Khi thu hút 
được nguồn FDI cần thiết, ĐBSCL sẽ có vốn đầu tư vào sản xuất thông qua các doanh 
nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài, các dự án liên doanh đây là một lợi ích quan trọng. Nó 
làm tăng việc làm và tăng mức lương của lao động; tạo cơ hội cho hơn 10 triệu lao động 
trong vùng tìm được việc làm trong thời gian tới với mức lương phù hợp; tăng nguồn thu 
ngân sách cho địa phương thông qua thu nhập tư bản nước ngoài tại vùng. 
Lợi ích đáng kể tiếp theo là chuyển giao công nghệ, điều này dễ thấy nhất trong các 
trường hợp thành lập các công ty liên doanh giữa một công ty nước phát triển với công ty 
của ĐBSCL. Việc chuyển giao này nó diễn ra theo hai dạng “dạng hẹp” và “dạng rộng”: 
dạng hẹp như dữ kiện, dữ liệu về các sản phẩm hay phương thức kĩ thuật thường được ghi 
lại rõ ràng; dạng rộng không dễ ghi chép được chẳng hạn như bí quyết tổ chức, mới là quan 
trọng. Thông qua lợi ích này người lao động ĐBSCL còn được chuyển giao công nghệ bằng 
hình thức gián tiếp và trực tiếp hợp tác đào tạo nâng cao tay nghề, tu nghiệp chính thức ở 
nước đầu tư. Và đây là khả năng có thể thành công nhất của vùng vì ĐBSCL đang phát triển 
chiến lược thay thế nhập khẩu. 
Bên cạnh, còn lợi ích khác là một phần chi tiêu ngân sách của vùng có thể khuyến 
khích dòng vào của vốn đầu tư nước ngoài, là dùng nhân lực để phát triển một hệ thống pháp 
luật và các dịch vụ hành chính công bằng và hiệu quả hơn. Vì thông qua hệ thống này, các 
nhà đầu tư thực hiện các hợp đồng liên doanh, đầu tư, thương vụ một cách hiệu quả nếu nhận 
được sự ủng hộ của hệ thống hành chính, cố vấn, dịch vụ pháp luật địa phương ĐBSCL. 
ĐBSCL cần nguồn đầu tư nước ngoài để làm gì? 
Trong bài phát biểu tại Hội thảo “Vì sự phát triển ĐBSCL” (11/2004), ông Sáu Hậu, 
Tổ tư vấn Ban chỉ đạo Tây Nam bộ khẳng định: “Thực trạng kinh tế ở ĐBSCL đã tụt hậu so 
với một số vùng trong cả nước” và đã kết luận “ Nên chọn khâu xây dựng cơ sở hạ tầng làm 
khâu đột phá”. Và theo hoạch tổng thể của bộ Kế hoạch và Đầu tư, ĐBSCL cần 6 tỷ USD 
để thực hiện các mục tiêu phát triển cơ sở hạng tầng kĩ thuật giai đoạn 1995 - 2000 và 28,1 
tỷ USD giai đoạn 2001 -2010 [8] 
Trước hết, cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật kinh tế là vấn đề được đặt lên hàng 
đầu ở ĐBSCL, để thực hiện được điều này thì ĐBSCL cần một nguồn vốn rất lớn. Đây là 
 8
vấn đề không thể giải quyết một sớm một chiều bằng nguồn ngân sách và vốn nội địa, cho 
nên vùng đang cần các nguồn đầu tư từ bên ngoài với các hình thức chủ yếu: FDI, ODA. 
Trước hết nhằm để ĐBSCL cải tạo hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật kinh tế; cụ 
thể: các khu cơ sở hạ tầng công nghiệp tập trung mới, xây dựng các công trình liên quan đến 
dịch vụ giao thông, vận tải nội và quốc tế đặt ở trung tâm của Vùng là TP. Cần thơ. 
Tiếp theo, ĐBSCL cần nguồn FDI để tăng số lượng các nhà máy và mở rộng diện 
tích các khu công nghiệp, đáp ứng tiềm năng khai thác và sử dụng nguyên liệu nông nghiệp 
của vùng. Nhất là các nhà máy chế biến: nông- thuỷ - hải sản phục vụ cho xuất khẩu, một 
lợi thế so sánh quan trọng hiện nay ĐBSCL đang có khả năng phát triển mạnh nhất nước. 
Do đó, cần các nguồn đầu tư nước ngoài để mở rộng qui mô hạ tầng kĩ thuật phục vụ các 
ngành sản xuất trên vùng là nhu cầu tất yếu để đáp ứng nhu cầu về khai thác và sử dụng các 
nguồn tài nguyên, để thực hiện chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu. 
Đầu tư nước ngoài với thương mại và dịch vụ khác 
 Chất lượng hoạt động thương mại của ĐBSCL sẽ tăng nhanh và tỷ lệ thuận với 
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi vì đây là mục đích chính, là kết quả của sự đầu 
tư hiệu quả của các nhà đầu nước ngoài và các địa phương đặt ra khi quyết định thực hiện 
các dự án, và rất phù hợp với điều kiện của vùng nguyên liệu lớn như ĐBSCL. Nếu như 
trong thời gian qua, nông sản đến mùa thu hoạch với một số lượng lớn thì khâu bảo quản và 
chế biến gặp khó khăn thì khi hội nhập kinh tế, vùng được đầu tư với số lượng các nhà máy 
chế biến sẽ giải quyết được nổi lo được mùa - mất giá của nông dân trong vùng. Các năm 
qua, lãnh vực có FDI đã đóng góp quan trọng vào xuất khẩu của nước ta, nhưng ở ĐBSCL 
thì đóng góp của lãnh vực có FDI chỉ ở dạng tiềm năng. Cho nên, khi ĐBSCL thu hút được 
FDI đáng kể, nó sẽ trở thành lực động chính giúp vùng nâng chất lượng ngoại thương và các 
dịch vụ liên quan khác như đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch, vận tải quốc tế 
4. Một vài ý kiến 
Làm gì để đẩy nhanh thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài vào ĐBSCL, các vấn đề 
chung cần đặt ra: 
- Sự tiếp tục ổn định chính trị của vùng; 
- Luật lệ hành chính và thuế khoá; 
- Các phí tổn giao dịch trong thương nghiệp; 
- Sự dễ dàng trong việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; và 
Cách giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa các nhà đầu tư và địa phương (nước chủ 
nhà Việt Nam). 
Về phía Chính phủ, cần đẩy nhanh hoàn chỉnh các định chế pháp luật; luật đầu tư nước 
ngoài, luật thương mại, cơ chế quản lí minh bạch, hỗ trợ các địa phương xây dựng cơ sở hạng 
tầng kĩ thuật chuẩn quốc tế, xây dựng - quy họach các chiến lược phát triển khoa học và đào 
 9
tạo cán bộ quản lí có trình độ ngang tầm quốc tế để phục vụ tốt các hoạt động hỗ trợ các dịch 
vụ pháp lí liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại của ĐBSCL và khu vực phía Nam, và 
đặc biệt là chính phủ và nhà nước đẩy nhanh tiến độ cải cách giáo dục và xây dựng hệ thống 
giáo dục cơ bản gắn với đào tạo nghề, lao động kĩ thuật lành nghề chất lượng. 
Về phía Chính quyền các địa phương trong vùng ĐBSCL 
 Theo chúng tôi, ngoài các nhóm giải pháp của Bộ Kế hoạch - Đầu tư đưa ra để thút 
đẩy việc thu hút và kêu gọi đầu tư từ nước ngoài, ở mỗi địa phương cần quan tâm cụ thể các 
vấn đề sau: 
- Tiếp tục thực hiện các nghị quyết số 09/2001/NQ-CP ngày 28/08/01, và chỉ thị số 
19/ 2001/CT-TTG của Chính Phủ, về việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư 
trực tiếp nước ngoài, song song chính quyền các địa phương vùng ĐBSCL cần xây dựng 
các mục tiêu cụ thể trong điều kiện của vùng. 
- Nắm bắt các cơ hội, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển hoạt động 
kinh tế đối ngoại tổng thể cho ĐBSCL, một chiến lược phát triển khách quan - khoa học có 
thể phát triển, nó phải thực sự kích thích được các nhà đầu tư quan tâm và quyết định đầu 
tư. Nó phải xuất phát từ tâm huyết nhà lãnh đạo có tư duy hội nhập và tính cách quyết đoán. 
Đối với từng tỉnh trong vùng, chính quyền địa phương cần xây dựng một chiến lược kêu gọi 
đầu hợp lí, dựa lợi thế đặc trưng nổi bật của mình với những danh mục ưu tiên đầu tư và 
chính sách thuế minh bạch, phát động chiến dịch quản bá ra bên ngoài bằng các kênh truyền 
thông rộng rãi và hiệu quả (quảng cáo truyền hình ASEAN, world wide web, MASS 
Media...), điều này ĐBSCL nên học tập các tỉnh, thành vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 
như Bình Dương, Tp. HCM ĐBSCL cần chú trọng đẩy nhanh xã hội hoá các dự án quá 
tầm về tài chính, kĩ thuật, hướng đến vận động và sử dụng “nguồn tài sản thứ ba” 
- Thái độ ứng xử mới, xuất phát từ mục tiêu là nắm bắt cơ hội để phát triển kinh tế, 
chính quyền các địa phương cần đổi mới tư duy ứng xử hành chính, cải cách hành chính. 
Đặc biệt là đội ngũ nhân viên phục vụ các hoạt động kinh tế đối ngoại phải được đào tạo 
cho phù hợp với nhu cầu hội nhập kinh tế (chính quy, khoa học, tư duy hội nhập, tính quốc 
tế). Các địa phương phải xem việc thu hút được nhiều nguồn vốn bên ngoài qua kênh FDI 
và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác trên địa phương là mục đích, động lực phát triển 
kinh tế quan trọng để từ đó tiến hành điều chỉnh các hoạt động cũng như hành xử tốt với đối 
tác - nhà đầu tư nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nhà đầu tư và chính quyền địa phương. 
- Chiến lược nguồn nhân lực, là một tác nhân quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến 
sự hội nhập và hoạt động kinh tế đối ngoại của ĐBSCL. Từ thực trạng trên đã cho thấy vùng 
cần có cuộc cách mạng chất luợng nguồn tài nguyên này. Về quan điểm, vùng cần phải xem 
“đào tạo nguồn lực cho các doanh nghiệp FDI cũng là đào tạo nguồn lực cho ta”. Vì hoạt 
động của các dự án FDI - ngoại lực sẽ kích thích nội lực - nền sản xuất nội địa phát triển, 
cho nên cần phải quan tâm đến đào tạo nguồn tài nguyên kinh tế quan trọng này. Với các 
yêu cầu sau: thứ nhất, ĐBSCL tăng cường phát triển thực sự giáo dục cơ bản (basic 
education), giáo dục phổ thông nông thôn để tạo điều kiện cho lao động nông nghiệp di 
 10
chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Tiếp theo, ĐBSCL phải xây dựng Tp Cần Thơ thành 
trung tâm khoa học- công nghệ có chất lượng xứng tầm để đáp ứng những dịch vụ đào tạo 
nguồn nhân lực trong vùng. Để thành công, các địa phương xây dựng một chiến lược cụ thể 
về đào tạo và sử dụng nguồn lao trẻ có trình độ lao động lành nghề, phù hợp - hiện đại và kĩ 
thuật cao, trong đó tập trung hiện đại hóa các cơ sở dạy nghề và “phải dạy nghề cho ra dạy 
nghề”. Và tiếp tục phát triển các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế như chương trình 
Mêkông 1000, xúc tiến liên kết Singapore, Hà Lan, Pháp, và phải minh bạch trong xây 
dựng và đào tạo nguồn theo các dự án đào tạo tại nước ngoài. 
- Môi sinh tương lai, để tiến bộ xã hội của ĐBSCL ngang tầm với sự tăng trưởng 
kinh tế thì vấn đề môi trường sinh thái ở ĐBSCL phải được đặt ra ngay từ bây giờ. Vì hiện 
nay, môi trường và ô nhiễm của vùng đã được báo động, cho nên khi tiến hành xây dựng 
các chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại các địa phương cần lập kế hoạch bảo vệ môi sinh 
một cách khoa học. Trong đó quan tâm hàng đầu là việc xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật và 
xử lí chất thải công nghiệp ra môi trường, khu công nghiệp và các khu an sinh công nghiệp 
(khu nhà ở, dịch vụ y tế, sinh hoạt xã hội cho công nhân). Về vấn đề này, cần học tập kinh 
nghiệm của các nước như Singapore, Hàn Quốc, để giảm thiểu tối đa những vấn đề về ô 
nhiễm môi trường và an sinh khu công nghiệp, họ đã đặt vấn đề này lên hàng đầu khi quyết 
định quy hoạch các dự án khu công nghiệp, và bắt buột các chủ đầu tư nước ngoài cùng 
chính quyền địa phương phối hợp quy hoạch, xây dựng để sử dụng ngay các khu an sinh 
công nghiệp khi khu công nghiệp bước vào hoạt động. Bên cạnh, khi tiếp nhận và chuyển 
giao phương tiện, công nghệ sản xuất bên ngoài (dây chuyền sản xuất) trong các dự án công 
nghiệp cần tiếp chọn theo hướng yêu cầu hiện đại để bảo vệ môi sinh tương lai. 
Từ những tác động của hoạt động kinh tế đối ngoại đối với sự phát triển kinh tế Việt 
Nam những năm qua và nhu cầu phát triển kinh tế bền vững của ĐBSCL tương lai, có thể 
khẳng định ĐBSCL đang cần tìm một “cú hích” thực sự từ bên ngoài bằng hoạt động kinh tế 
đối ngoại để phát triển và khẳng định mình trong thời kì hội nhập mới. 
Kết luận 
Bài viết đề cập các hoạt động kinh tế đối ngoại nổi bật đang diễn ra ở ĐBSCL, phân 
tích một số thực trạng về hoạt động trong vùng. Trong đó một phần phân tích những yếu tố 
tích cực và hạn chế của nó ở góc độ vùng. Và trước những đóng góp đáng kể trong các năm 
qua, hoạt động kinh tế đối ngoại của ĐBSCL còn những đóng góp quan trọng hơn nữa, nó 
sẽ là động lực cho sự phát triển của vùng khi nó phát triển hoàn chỉnh với những nội dung 
của nó. Và phần sau cuối chúng tôi cố gắng thử đề xuất một vài ý kiến để hoạt động kinh tế 
đối ngoại của vùng được phát triển đầy đủ. 
Để hoạt động kinh tế đối ngoại trở thành động lực thúc đẩy phát triển thì ĐBSCL 
nhanh chóng cải thiện chất lượng và đào tạo mới nguồn nhân lực, cũng như thay đổi tư duy, 
cách ứng xử hành chính cho phù hợp với yêu nhu cầu của hoạt động kinh tế đối ngoại. Hiện 
nay, ngoài những lợi thế so sánh truyền thống của ĐBSCL đang có, thì nhà đầu tư quốc tế 
đang quan tâm tới khả năng thu hút khác là lợi thế về chi phí vận chuyển, cơ hội mậu dịch, 
 11
lao động chất lượngDo đó ĐBSCL phải nhanh chóng xây dựng những chiến lược phát 
triển cho phù hợp với xu thế mới và phải hoàn thiện hệ thống thông tin và tổ chức. Khi đó, 
chúng ta có thể hi vọng rằng ĐBSCL sẽ tận dụng điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế một 
cách chủ động và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lí, phát 
huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng tỉ trong xuất khẩu các sản 
phẩm chế biến các giá trị cao, mang tính đặc thù, và chủ động tiến tới chấm dứt xuất khẩu 
tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế biến. 
 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Tổng cục thống Kê, Niên Giám thống kê 2005, năm 2006. 
[2] Tác giả tổng hợp từ nguồn các Cục thống kê của ĐBSCL, năm 2005 
[3] Tạp chí Khu công nghiệp VN tháng 1/2007 
[4] Nguồn Tổng cục thống Kê, Niên Giám thống kê 2006, năm 2007 
[5] Tác giả tổng kết từ các Sở LĐTB -XH các tỉnh trong vùng ĐBSCL, năm 2007 
[6] Ủy Ban ND tỉnh Kiên Giang, Báo cáo sơ kết công tác du lịch 02 năm 2006 - 2007 
theo nghị quyết 02 và 08- NQ/TU của tỉnh ủy Kiên Giang, 12/2007 
[7] Đảng cộng sản, Văn kiện Đại Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, tr 84 
[8] Xem thêm, Bộ kế Hoạch và Đầu tư, Qui Hoach tổng thể các vùng KT VN/ vùng 
đồng bằng sông Cửu Long (website Bộ KH& ĐT-
Địa chỉ liên hệ: 
Nguyễn Trọng Minh, Khoa Giáo dục chính trị, Trường Đại học Sư phạm Đồng Tháp. 
Số 783, Phạm Hữu Lầu, Phường 6. Tp. Cao Lãnh, Đồng Tháp. 
DĐ: 091.315.85.12, Email: trongminh1176@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfhoat_dong_kinh_te_doi_ngoai_dong_luc_phat_trien_dong_bang_so.pdf