Hiện trạng và các biện pháp cải tiến dịch vụ thông tin - thư viện phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Dịch vụ thông tin – thư viện (DV TT -
TV) là cầu nối, hỗ trợ đắc lực cho giảng viên, học
viên sau đại học và sinh viên khai thác hiệu quả
nguồn tài nguyên thông tin trong thư viện các
trường đại học. Chính vì vậy, công tác cải tiến và
nâng cao chất lượng DV TT - TV là một hoạt động
cần diễn ra thường xuyên tại các thư viện đại học
(TVĐH). Qua đánh giá thực trạng DV TT - TV tại
Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐH
KHXH&NV, ĐHQG-HCM), bài viết đề xuất một số
biện pháp nhằm cải tiến hoạt động này, từ đó góp
phần tạo ra những sản phẩm và dịch vụ thông tin có
chất lượng, phục vụ nhu cầu đào tạo và nghiên cứu
khoa học cho người sử dụng (NSD)
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng và các biện pháp cải tiến dịch vụ thông tin - thư viện phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ: 21 CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, TẬP 2, SỐ 4, 2018 Tóm tắt—Dịch vụ thông tin – thư viện (DV TT - TV) là cầu nối, hỗ trợ đắc lực cho giảng viên, học viên sau đại học và sinh viên khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin trong thư viện các trường đại học. Chính vì vậy, công tác cải tiến và nâng cao chất lượng DV TT - TV là một hoạt động cần diễn ra thường xuyên tại các thư viện đại học (TVĐH). Qua đánh giá thực trạng DV TT - TV tại Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM), bài viết đề xuất một số biện pháp nhằm cải tiến hoạt động này, từ đó góp phần tạo ra những sản phẩm và dịch vụ thông tin có chất lượng, phục vụ nhu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học cho người sử dụng (NSD). Từ khóa—dịch vụ thông tin – thư viện, thư viện đại học, đào tạo, nghiên cứu khoa học, cải tiến, người sử dụng1 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Thư viện trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG- HCM (sau đây gọi tắt là Thư viện trường) giữ vai trò quan trọng trong việc góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của 29 khoa/bộ môn trực thuộc trường với 56 phân ngành đại học, 43 phân ngành sau đại học và hơn 10 chương trình liên kết quốc tế khác nhau thuộc các lĩnh vực Khoa học Xã hội Ngày nhận bản thảo: 15-10-2018; Ngày chấp nhận đăng: 24-12-2018; Ngày đăng: 31-12-2018. Bùi Thu Hằng, Ngô Thị Thanh Hương, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM (Email: bthang@hcmussh.edu.vn) và Nhân văn [8]. Tính đến tháng 12/2017, kho tài liệu của Thư viện có 214.931 bản tài liệu, tương ứng với 90.645 nhan đề tài liệu về các ngành đào tạo của Nhà trường [12]. Thư viện có nhiệm vụ tổ chức các DV TT - TV nhằm hỗ trợ cho đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu, học viên sau đại học, sinh viên của trường khai thác, sử dụng thuận lợi và có hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin do Thư viện quản lý, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) của Nhà trường theo chiến lược phát triển "xây dựng trường đại học định hướng nghiên cứu" [7]. Mục tiêu chiến lược này dẫn đến những yêu cầu đổi mới trong hoạt động giảng dạy, đào tạo và NCKH của Nhà trường; sự chuyển đổi và phát triển của hình thức đào tạo, tập trung vào việc phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học; Phát triển năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên,... Từ đó đòi hỏi vai trò của Thư viện cũng cần có sự chuyển hướng từ các dịch vụ (DV) cung cấp thông tin ở khu vực nghiên cứu truyền thống trở thành không gian sống động, linh hoạt, phù hợp với từng mục đích khác nhau của NSD. Tuy nhiên, hiện nay DV TT - TV tại Thư viện trường chủ yếu cung cấp thông tin về tài liệu, chưa tập trung nhiều vào các DV thông tin có giá trị gia tăng (tức là các dịch vụ thích hợp với các yêu cầu mang tính cá biệt và đòi hỏi cao của NSD) [14], dẫn đến chất lượng DV chưa tốt và hiệu quả phục vụ thông tin cho NSD chưa cao. Bên cạnh đó, theo báo cáo kết quả đánh giá ngoài của Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Quốc Hiện trạng và các biện pháp cải tiến dịch vụ thông tin – thư viện phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Bùi Thu Hằng, Ngô Thị Thanh Hương 22 SCIENCE AND TECHNOLOGY DEVELOPMENT JOURNAL- SOCIAL SCIENCES & HUMANITIES, VOL 2, ISSUE 4, 2018 gia Hà Nội (2016) cho thấy: Thư viện trường đang dần được đầu tư phát triển về nguồn học liệu phục vụ cho đào tạo và NCKH, tuy nhiên việc cung cấp nguồn học liệu, cũng như khả năng hoạt động, hình thức và chính sách phục vụ, trong đó có DV TT - TV đạt hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng một cách đầy đủ, kịp thời và đa dạng nhu cầu thông tin cho mọi đối tượng NSD tại Thư viện [16]. Vì vậy, việc đánh giá hiện trạng làm cơ sở đề xuất các biện pháp cải tiến DV TT - TV giúp Thư viện tạo ra các sản phẩm TT - TV chất lượng và phù hợp với NSD, đồng thời tác động, kích thích nhu cầu khai thác và sử dụng thông tin của mỗi cá nhân trong Nhà trường tăng cao. Điều này cũng tạo động lực giúp Thư viện liên tục cải tiến và nâng cao được vị thế, hình ảnh của mình. 2 TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ THÔNG TIN - THƯ VIỆN 2.1 Khái niệm dịch vụ thông tin - thư viện Theo từ điển giải nghĩa thư viện học và tin học Anh – Việt “DV thư viện” (library service) là một từ chung dùng để chỉ tất cả các hoạt động cũng như chương trình được thư viện cung cấp để đáp ứng nhu cầu về thông tin của người dùng tin”. Bên cạnh đó, “DV thông tin” (information service) là DV trực tiếp do nhân viên tham khảo của thư viện cung cấp cho độc giả trong tiến trình truy tìm thông tin của họ” [1]. Với cách nhìn cụ thể và toàn diện hơn, tác giả Trần Mạnh Tuấn (1998) - một chuyên gia trong lĩnh vực sản phẩm và DV TT - TV cho rằng: "DV thông tin bao gồm những hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin và trao đổi thông tin của người dùng tin tại các cơ quan thông tin, thư viện nói chung” [13]. Mặc dù có nhiều cách phát biểu khác nhau, tuy nhiên có thể hiểu một cách đơn giản và đầy đủ nhất về DV TT TV trong trường đại học “bao gồm những hoạt động của TVĐH nhằm thỏa mãn nhu cầu tin của cán bộ nghiên cứu, giảng viên, học viên sau đại học và sinh viên trong trường ". Hầu hết các thư viện ở Việt Nam nói chung và TVĐH nói riêng khi triển khai thực hiện DV TT - TV đều theo cách tiếp cận này. Là một hoạt động của TVĐH, DV TT - TV phải sử dụng các nguồn lực của thư viện trong suốt quá trình triển khai DV như nguồn lực cơ sở vật chất - trang thiết bị, nguồn lực con người, nguồn lực thông tin và các sản phẩm TT - TV. Chính vì vậy, cách tổ chức DV và chất lượng DV TT - TV buộc phải chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên trong này. Bên cạnh đó, mục tiêu của DV TT - TV là thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của NSD. Tuy nhiên nhu cầu của NSD không đồng nhất và lu ... và người học, chuyển từ hình thức phục vụ thụ động “phục vụ những gì mình có sẵn” sang hình thức chủ động “phục vụ theo yêu cầu”; + Đa dạng hóa các hình thức phục vụ; thay đổi chính sách phục vụ; thời gian xử lý và cung cấp sản phẩm của các DV TT - TV nhằm tăng số lượng tài liệu được mượn, số lượng NSD và tạo điều kiện cho họ dễ dàng, thuận tiện khi sử dụng các DV tại Thư viện. Ví dụ như tăng thời gian gia hạn tài liệu đồng thời tăng số lượng tài liệu được mượn đọc tại chỗ và được mượn về nhà đối với từng đối tượng phục vụ; Tăng thời gian phục vụ ngoài giờ đối với DV mượn tài liệu về nhà vào các buổi trưa trong tuần; Thay đổi chính sách phục vụ đối với người học thuộc các hệ đào tạo từ xa, hệ văn bằng 2, hệ vừa làm vừa học được mượn tài liệu về nhà; Mở rộng phạm vi truy cập nguồn tài liệu điện tử từ xa ra bên ngoài Thư viện...; + Cần chú trọng phát triển các dịch vụ cung cấp thông tin như DV phổ biến thông tin có chọn lọc (SDI), DV tìm kiếm thông tin theo yêu cầu, DV tham khảo, thành lập quầy tư vấn thông tin (Information Desk). Đồng thời đẩy mạnh triển khai các DV thông tin hiện đại như DV truy cập nguồn tài liệu điện tử từ xa, DV số hóa tài liệu, DV bao gói CSDL theo yêu cầu, ...đến các nguồn học liệu dạng số trong môi trường mạng theo các lĩnh vực mà giảng viên và người học được đào tạo và nghiên cứu. Để thực hiện được nhiệm vụ khó khăn này, một chính sách thống nhất đối với việc tạo lập, quản lí và khai thác nguồn học liệu trong Nhà trường cần được hình thành và thực thi một cách lâu dài, ổn định. Bởi nguồn học liệu và các kết quả NCKH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nguồn thông tin khoa học nội sinh có ý nghĩa và giá trị đặc biệt trong trường đại học. Đặc biệt, Thư viện cần chú trọng phát triển thêm các DV hỗ trợ nghiên cứu dành cho giảng viên, học viên sau đại học như: DV cung cấp thông tin theo chuyên đề (bao gồm thư mục chuyên đề có tóm tắt, chú giải), đặc biệt là các DV cung cấp các trợ giúp và công cụ để NSD có thể sử dụng được các tiện ích quản lý tham khảo trên môi trường số và cung cấp các số liệu đáp ứng nhu cầu đánh giá khoa học thông qua các số liệu thống kê về trích dẫn khoa học (citation), một dạng cơ bản của trắc lượng thư mục (bibliometrics), trắc lượng web (webometrics) [17]. Các công cụ quản lý dữ liệu tham khảo phổ biến hiện nay được cung cấp miễn phí là EndNote, RefWorks, Zotero; DV cung cấp các chỉ số tác động (Impact Factor: IF - đối với các tài liệu khoa học trực tuyến mà thư viện cung cấp) để phục vụ NSD [4, 15]; DV hỗ trợ xuất bản tạp chí quốc tế thuộc nhóm SCI/ SSCI có chỉ số đánh giá cao (ví dụ như dịch vụ ENAGO, EEWOWW cung cấp các dịch vụ tiện ích như kiểm tra ngôn ngữ, chỉnh sửa bản thảo hoặc chỉnh sửa hoàn chỉnh các bài báo); DV kiểm tra chống trùng lặp dữ liệu (data duplication) trong đào tạo và nghiên cứu (ví dụ như triển khai ứng dụng các phần mềm Turnitin, DoIT). + Bên cạnh đó, Thư viện cần chú trọng phát triển các loại hình DV trao đổi thông tin. Trong hoạt động TT - TV, sự trao đổi thông tin thông qua các tiếp xúc trực tiếp giữa NSD được xem là một trong các khả năng quan trọng trong việc tiếp nhận và cung cấp thông tin. Điển hình như tổ chức thường xuyên và định kỳ các sự kiện Hội nghị bạn đọc; Triển lãm; Tọa đàm giới thiệu tài liệu; Hội sách; Các cuộc thi dành cho bạn đọc nhằm tạo ra môi trường sinh hoạt văn hóa, tăng nhu cầu, hứng thú đọc sách cho NSD. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh phát triển các DV "trao đổi trực tuyến" (chat reference) bằng các phần mềm trao đổi trực tuyến khác nhau hoặc các tiện ích từ mạng xã hội (facebook); ... + Tăng cường sự liên kết, chia sẻ với các thư viện Khoa/Bộ môn, với Hệ thống Thư viện ĐHQG-HCM và tiếp tục mở rộng liên kết với các thư viện ngoài Hệ thống và các thư viện nước ngoài, thông qua các hình thức phục vụ các DV chung như DV mượn liên thư viện, DV truy cập TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ: 31 CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, TẬP 2, SỐ 4, 2018 CSDL điện tử từ xa. Từ đó góp phần gia tăng nguồn học liệu sử dụng chung trong toàn trường, trong và ngoài Hệ thống ĐHQG-HCM cũng như quốc tế; + Tăng cường công tác tiếp thị, truyền thông, cung cấp đầy đủ thông tin về các DV TT - TV hiện có tại Thư viện, cũng như những lợi ích mà DV mang đến cho các cán bộ, giảng viên và người học, đặc biệt là các sản phẩm và DV thông tin mới, có giá trị tại Thư viện qua các kênh mạng xã hội, website, email, bảng tin, thông báo, ...của Thư viện và các đơn vị trong và ngoài Nhà trường; + Đẩy mạnh công tác tổ chức giới thiệu, hướng dẫn cán bộ, giảng viên, người học cách thức sử dụng các sản phẩm và DV TT - TV mới, hiện đại như DV truy cập các CSDL điện tử để khai thác hiệu quả các nguồn dữ liệu trực tuyến có được nhằm phục vụ cho học tập, nghiên cứu. Đa dạng hóa hình thức hướng dẫn sử dụng thư viện điện tử một cách linh hoạt, phù hợp với thời gian làm việc của các cán bộ, giảng viên và thời gian học tập của người học; + Cần quản lý nghiêm ngặt công tác triển khai các DV TT - TV, đảm bảo việc số hóa tài liệu và truy cập nguồn tài liệu điện tử phục vụ đào tạo và NCKH theo đúng Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (đã được sửa đổi năm 2013, ban hành ngày 18 tháng 12 năm 2013 theo văn bản số 19/VBHN- VPQH) với sự hỗ trợ của phần mềm quản lý thư viện điện tử. Những vấn đề về bản quyền tài liệu điện tử, như giáo trình, bài giảng điện tử cần được thể chế hóa trong nội qui phục vụ bạn đọc của Thư viện. Cụ thể: NSD DV là người dùng tin trực tiếp, do đó, cần hạn chế đến mức cao nhất việc sao chụp toàn bộ một tài liệu và số lượng bản sao chụp; Không có chi phí bản quyền khi thanh toán DV; Cần tạo ra sự khác biệt dễ nhận biết được giữa bản được chụp và bản chụp; Trên mỗi bản sao chụp, cần thể hiện rõ ràng, chính xác và đầy đủ những thông tin chính liên quan đến việc triển khai và sử dụng DV [14]; + Cần chú trọng công tác bảo trì, nâng cấp các phần mềm quản lý thư viện một cách thường xuyên nhằm đảm bảo an toàn thông tin của nguồn tài liệu tại Thư viện. Bên cạnh đó chú ý đề xuất sửa chữa, cải thiện cơ sở vật chất, tổ chức sắp xếp kho tài liệu khoa học; đồng thời trang bị thêm các thiết bị mới hiện đại, ứng dụng CNTT và truyền thông vào các DV TT - TV. Bởi trong môi trường này, tính thân thiện, tiện lợi, khả năng thích nghi với việc có thể khai thác, sử dụng thông tin, sử dụng DV thông tin tại mọi nơi và mọi lúc sẽ được phát huy. Từ đó, việc khai thác, sử dụng thông tin và DV TT - TV được thực hiện trên một quy mô rộng rãi nhất, theo một cách bình đẳng nhất đối với mọi thành viên trong trường đại học; + Thường xuyên khảo sát nhu cầu tin của NSD với các đặc tính về trình độ, tập quán, thói quen, khả năng và điều kiện, tâm lí và sở thích... một cách toàn diện để có thể thiết kế được các DV TT - TV thỏa mãn các điều kiện về tính tiện lợi và thân thiện đối với từng đối tượng giảng viên, cán bộ nghiên cứu và người học; + Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thực hiện DV TT - TV tại Thư viện cần được đặc biệt chú trọng nhằm xây dựng được đội ngũ CBTV phục vụ nghiên cứu (research librarians) và CBTV liên lạc (liaison librarians), từ đó có thể kết nối công tác phục vụ đào tạo và NCKH giữa Thư viện với các Khoa/Bộ môn trong toàn trường. Để làm được điều này lãnh đạo thư viện cần tạo điều kiện cho CBTV nâng cao trình độ như học cao học, học các khóa ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ, các lớp kỹ năng mềm, lớp nâng cao kỹ năng ngoại ngữ - tin học. Đồng thời tạo điều kiện cho CBTV tham dự các sự kiện hội thảo, hội nghị chuyên ngành, tham quan học tập với các TVĐH khác trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, lãnh đạo thư viện cũng cần tìm kiếm các công việc làm thêm ngoài giờ phù hợp với CBTV, giúp họ cải thiện nguồn thu nhập và yên tâm công tác. 5 KẾT LUẬN Chất lượng đào tạo và NCKH của một trường đại học luôn gắn liền với chất lượng của các DV TT - TV, mà giảng viên, nhà nghiên cứu, học viên sau đại học và sinh viên là đối tượng sẽ tham gia vào các quá trình khai thác và sử dụng. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu đổi mới theo "định hướng nghiên cứu" của Nhà trường, Thư viện cần chú trọng đến việc đánh giá và cải tiến một cách thường xuyên, liên tục DV TT - TV. Kết quả từ các hoạt động đánh giá và cải tiến này sẽ giúp Thư viện chứng tỏ 32 SCIENCE AND TECHNOLOGY DEVELOPMENT JOURNAL- SOCIAL SCIENCES & HUMANITIES, VOL 2, ISSUE 4, 2018 khả năng thích ứng và thay đổi cần thiết để đáp ứng các nhu cầu của NSD, với cách tiếp cận mới lấy "người sử dụng làm trung tâm trong mọi hoạt động" là mục tiêu phát triển của Thư viện để triển khai thực hiện các DV TT - TV một cách hiệu quả, nhằm cung cấp cơ hội cho NSD tiếp cận đến thông tin, vốn hết sức đa dạng và luôn biến đổi trong kỷ nguyên phát triển thông tin và công nghệ như vũ bão hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] ALA; Phạm Thị Lệ Hương, Lâm Vĩnh Thế và Nguyễn Thị Nga dịch (1996). Từ điển giải nghĩa thư viện học và tin học Anh - Việt, Tucson, AZ: Galen Press. [2] Bopp, Richard E (2001). Reference and information services: introduction, 3 ed., Libraries unlimited, Colorado. [3] Đoàn Phan Tân (2001). Thông tin học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. [4] Đinh Thúy Quỳnh (2017). Phát triển dịch vụ thông tin trong các thư viện đại học, Kỷ yếu hội thảo “Dịch vụ thông tin thư viện trong xã hội hiện đại”, Hà Nội. [5] Idiegbeyan-ose Jerome, Christopher Nkiko, Osinulu Ifeakachuku (2017). Value-added Service to Academic Library Users in 21st Century: Using Competitive Intelligence Approach. Library Philosophy and Practice. [6] Hoàng Thị Hồng Nhạn (2005). Vai trò của Thư viện trong các trường đại học, tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Quảng Bình. [7] Kế hoạch chiến lược phát triển Thư viện trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn 2030. [8] Kế hoạch chiến lược phát triển trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn 2030. [9] Nội quy thư viện trường Thư viện trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM năm 2016. [10] Ngô Thanh Thảo. Đánh giá sản phẩm, dịch vụ thông tin - thư viện: bài giảng, ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM, Tp. HCM. [11] Rahmatollah Fattahi & Ebrahim Afshar (2006). Added value of information and information systems: A conceptual approach. Library Review, 2006, vol. 55, n. 2, pp. 132-147. [12] Thư viện trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM (2017). Báo cáo sơ kết học kỳ I năm học 2017 - 2018. [13] Trần Mạnh Tuấn (1998). Sản phẩm và dịch vụ thông tin, thư viện: Giáo trình, Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Hà Nội. [14] Trần Mạnh Tuấn (2010). Hiện trạng và một số tính chất phát triển của dịch vụ tại thư viện, Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 2, tr.15-20. [15] Trần Thị Kiều Nga (2017). Dịch vụ thư viện trong kỷ nguyên số, Kỷ yếu hội thảo “Dịch vụ thông tin thư viện trong xã hội hiện đại”, Hà Nội. [16] Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội (2016). Báo cáo đánh giá ngoài Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM. [16] Trường đại học Vinh (2018). Xu hướng phát triển dịch vụ Thông tin - Thư viện tại các thư viện đại học trên thế giới, dich-vu-thong-tin-thu-vien-tai-cac-thu-vien-dai-hoc-tren- the-gioi-85663, truy cập ngày 9/12/2018. [17] Vũ Thị Ân (2017). Phát triển dịch vụ thông tin - thư viện trong xã hội hiện đại đón đầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Hội thảo "Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến hoạt động TT - TV", Đà Nẵng. Bùi Thu Hằng, Thạc sĩ ngành Khoa học Thư viện (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM) năm 2010. Cử nhân chuyên ngành Thư viện - Thông tin học (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM) năm 2004. Tham gia giảng dạy tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM từ năm 2009; Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật TP.HCM từ năm 2014. Lĩnh vực nghiên cứu: thư viện điện tử, thư viện số; Luật xuất bản và Quyền sở hữu trí tuệ; Kiến thức thông tin; Sản phẩm và dịch vụ Thông tin - Thư viện. Ngô Thị Thanh Hương, Thạc sĩ Khoa học Thư viện (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM) năm 2010. Cử nhân chuyên ngành Ngữ văn Anh (Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội) năm 1999. Tham gia giảng dạy tại Trường Đại học Công nghệ Thực phẩm, Cao đẳng Kỹ thuật miền Nam, Cao đẳng Kỹ thuật kinh tế Sài Gòn từ năm 2005; Lĩnh vực nghiên cứu: Hoạt động tra cứu tin; quản lý nguồn nhân lực thư viện. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ: 33 CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, TẬP 2, SỐ 4, 2018 Improving the Library and Information Services for formation and scientific research at the University of Social Sciences and Humanities, Viet Nam National University Ho Chi Minh City Bui Thu Hang*, Ngo Thi Thanh Huong University of Social Sciences and Humanities, VNUHCM *Corresponding author: bthang@hcmussh.edu.vn Received: Oct 15th 2018; Accepted: Dec 24th 2018; Published: Dec 31st 2018 Abstract—Library and Information Service is a bridge which supports effectively for lectures, postgraduates and undergraduates in exploiting efficiently the information resources in the University Library. Therefore, the improvement of the quality of the Library and Information Service is a regular activity in university libraries. Based on the assessment reports and surveys concerning to the Library and Information Services at the University Library of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University Ho Chi Minh City, the paper presents measure to improve this activity, thereby contributing to create valuable products and services in order to meet the needs of training and scientific research for users. Index Terms—Library and information services; improvement; university library; training; scientific research; users.
File đính kèm:
- hien_trang_va_cac_bien_phap_cai_tien_dich_vu_thong_tin_thu_v.pdf