Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng

Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu chi tiết về địa tầng của một số giếng khoan qua móng đá vôi bởi các tổ hợp hóa thạch trùng

lỗ bám đáy (benthic foraminifera) và đặc điểm thạch học. Kết quả nghiên cứu cho thấy các thành tạo đá vôi chủ yếu là packstone,

wackestone, mudstone chứa phong phú hóa thạch trùng lỗ đặc trưng cho thời kỳ Permian (Wuchiapingian - Changhsingian). Thành phần

thạch học của đá chưa bị biến đổi nhiều nên các hóa thạch được bảo tồn khá tốt, trong đó các khung hóa thạch bị thay thế bởi xi măng

calcite và dolomite. Lỗ rỗng được thành tạo chủ yếu bởi sự nén ép của các khối đá móng tạo nên dạng khe nứt. Các khe nứt chủ yếu được

lấp đầy bởi các khoáng vật calcite, dolomite và silic do ảnh hưởng của các hoạt động magma và quá trình thủy nhiệt.

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 1

Trang 1

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 2

Trang 2

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 3

Trang 3

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 4

Trang 4

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 5

Trang 5

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 6

Trang 6

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 7

Trang 7

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 8

Trang 8

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 9

Trang 9

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng trang 10

Trang 10

pdf 10 trang viethung 4140
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng

Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi permian phía nam lô 106, bể sông Hồng
22 DẦU KHÍ - SỐ 3/2020 
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
cấu tạo Hàm Rồng, Hạ Long và Phả Lại. Một số nghiên cứu 
chi tiết về địa tầng do Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) thực 
hiện nhằm cung cấp các thông tin chi tiết về địa tầng và 
liên kết địa tầng của các giếng khoan với các khu vực lân 
cận giúp định hướng công tác tìm kiếm, thăm dò, khai 
thác đạt hiệu quả hơn. Trong bài báo này, tác giả chỉ đề 
cập đến các nghiên cứu về địa tầng và thạch học móng đá 
vôi của 3 giếng khoan SH1, SH2 và SH3 thuộc phía Nam Lô 
106 được thành tạo vào cuối Paleozoic (PZ).
Khu vực nghiên cứu có hoạt động kiến tạo rất phức 
tạp nằm ở rìa phía Nam của mảng Nam Trung Hoa, gần đới 
khâu Sông Mã là ranh giới giữa mảng Nam Trung Hoa và 
Indochina [1]. Đới khâu Sông Mã xảy ra vào cuối Paleozoic 
do quá trình khép kín của 2 mảng trên và là nơi giao nhau 
của các đới và phụ đới kiến tạo chính [2] (Hình 1). 
Với mục tiêu nghiên cứu chi tiết địa tầng trong các 
thành tạo đá vôi, tác giả sử dụng tổ hợp hóa thạch trùng 
lỗ bám đáy (benthic foraminifera) để mô tả nhận dạng 
trực tiếp hình dạng, sự sắp xếp các phòng phôi để xác 
định tên giống và loài. Đối với mẫu đá vôi nguyên khối 
(mẫu lõi, mẫu sườn) thực hiện gia công lát mỏng và phân 
tích dưới kính hiển vi phân cực. Đối với mẫu vụn sẽ tiến 
hành đúc các mảnh vụn sau khi được chọn thành khối 
trước khi mài lát mỏng. Cùng với việc nghiên cứu địa 
tầng là nghiên cứu đặc điểm thạch học của các thành 
tạo đá vôi chứa hóa thạch về thành phần, cấu trúc, giai 
đoạn thành tạo đá và ảnh hưởng của kiến tạo để đánh 
Ngày nhận bài: 20/2/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 20/2 - 13/3/2020. 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 13/3/2020.
ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC VÀ SỰ PHÂN BỐ CỦA TRÙNG LỖ TRONG ĐÁ VÔI 
PERMIAN PHÍA NAM LÔ 106, BỂ SÔNG HỒNG
TẠP CHÍ DẦU KHÍ
Số 3 - 2020, trang 22 - 31
ISSN-0866-854X
Mai Hoàng Đảm, Vũ Thị Tuyền
Viện Dầu khí Việt Nam
Email: dammh@vpi.pvn.vn
Tóm tắt
Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu chi tiết về địa tầng của một số giếng khoan qua móng đá vôi bởi các tổ hợp hóa thạch trùng 
lỗ bám đáy (benthic foraminifera) và đặc điểm thạch học. Kết quả nghiên cứu cho thấy các thành tạo đá vôi chủ yếu là packstone, 
wackestone, mudstone chứa phong phú hóa thạch trùng lỗ đặc trưng cho thời kỳ Permian (Wuchiapingian - Changhsingian). Thành phần 
thạch học của đá chưa bị biến đổi nhiều nên các hóa thạch được bảo tồn khá tốt, trong đó các khung hóa thạch bị thay thế bởi xi măng 
calcite và dolomite. Lỗ rỗng được thành tạo chủ yếu bởi sự nén ép của các khối đá móng tạo nên dạng khe nứt. Các khe nứt chủ yếu được 
lấp đầy bởi các khoáng vật calcite, dolomite và silic do ảnh hưởng của các hoạt động magma và quá trình thủy nhiệt. 
Từ khóa: Hóa thạch trùng lỗ, móng đá vôi, địa tầng, đá vôi packstone, đá vôi wackestone, đá vôi mudstone. 
1. Giới thiệu chung
Bể trầm tích Sông Hồng được lấp đầy bởi các trầm tích 
Đệ Tam, có cấu trúc địa chất rất phức tạp với nhiều đới 
phân dị khác nhau và thành phần đá móng đa dạng gồm: 
đá biến chất kết tinh gneiss, đá nội sinh, trầm tích mảnh 
vụn và các thành tạo đá vôi. Trong đó, móng đá vôi trước 
Cenozoic được tìm thấy khá phổ biến ở khu vực phía Bắc 
của bể Sông Hồng thuộc các cụm cấu tạo: Hàm Rồng, Yên 
Tử, Phả Lại, Đồ Sơn. Các thành tạo móng đá vôi bắt đầu 
trở thành đối tượng quan trọng khi phát hiện sản phẩm 
hydrocarbon chứa trong móng ở khu vực Lô 102 - 106. 
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về địa tầng ở khu vực này 
còn nhiều hạn chế bởi số lượng mẫu (giếng khoan) chưa 
nhiều. 
Một số dự án nghiên cứu tổng thể về kiến tạo, thạch 
học, địa tầng đã được Tổng công ty Thăm dò Khai thác 
Dầu khí (PVEP) thực hiện bởi các tuyến khảo sát thực địa 
vùng Hải Phòng, Hải Dương, Hạ Long, Cát Bà để liên hệ 
đối sánh với các thành tạo bên dưới bể Sông Hồng. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy giữa chúng có mối quan hệ về 
nguồn gốc với nhau, các khối móng đá vôi chủ yếu được 
thành tạo trong thời kỳ Devonian - Carboniferous thuộc 
các hệ tầng: Tràng Kênh, Phố Hàn và Bắc Sơn ở các cụm 
23DẦU KHÍ - SỐ 3/2020 
PETROVIETNAM
giá khả năng chứa của đá. Nghiên cứu được thực hiện trên 103 mẫu (5m/
mẫu) phân tích hóa thạch trùng lỗ và 30 mẫu (20 - 30m/mẫu) phân tích 
các chỉ tiêu thạch học. 
2. Đặc điểm thạch học đá vôi
Trong khoảng độ sâu nghiên cứu, đá vôi có thành phần chính là 
khoáng calcite không chứa sắt, có màu hồng, đôi chỗ có sự hiện diện 
của calcite chứa sắt, có màu tím do nhuộm màu và dolomite không chứa 
sắt. Mảnh vụn sinh vật như trùng lỗ bám đáy (benthic foraminifera), 
echinoderm, coral, tảo (algae), bryozoa, brachiopod hiện diện trong đá. 
Do các hoạt động kiến tạo, nén ép và quá trình tạo đá tạo ra các nứt nẻ 
và kiến trúc dạng đường khâu (stylolite: đường nứt ngoằn ngoèo được 
tạo ra do sự hòa tan khoáng vật), bị lấp đầy bởi khoáng calcite chứa sắt, 
dolomite. 
Các khoáng vật kết tinh sau quá trình lắng đọng trầm tích silicite 
(chalcedony) trám vào các nứt nẻ của đá, giống như các đai mạch xâm 
nhập vào đá vôi và lấp đầy các khe nứt. Các lỗ rỗng của đá được tạo ra 
do sự hòa tan (vuggy pores) và nứt nẻ (fractured pores) đôi chỗ còn được 
bảo tồn. Trên cơ sở phân loại của Dunham (1962), đá vôi trong khu vực 
nghiên cứu được phân loại là: packstone, wackestone và mudstone. Ở khu 
vực cấu tạo SH2, SH3 đặc trưng bởi tướng đá vôi wackestone, bùn vôi 
(mudstone) và khu vực cấu tạo SH1 là đá vôi packstone, wackestone bị 
dolomite hóa và tái kết tinh mạnh.
Đá vôi packstone chứa hàm lượng tương đối các mảnh vụn sinh vật 
như: foraminifera, tảo, echinoderm, coral, bryozoa, brachiopod và các 
mảnh hóa thạch khác chiếm hàm lượng trên 10% trong tổng thành 
phần của đá. Các mảnh vụn sinh vật và mảnh hóa thạch tiếp xúc nhau 
và được gắn kết bởi bùn vôi và bùn vôi kết tinh thành microspar calcite 
(4 - 10µm), pseudospar calcite (10 - 50µm) và đôi khi chúng bị dolomite 
hóa. Khung sinh vật bị thay thế hoàn toàn bởi calcite, phòng phôi của 
hóa thạch cũng được lấp đầy bởi c ... phân bố hóa thạch trùng lỗ (LBF) trong giếng khoan SH1 đặc trưng cho tuổi Permian
26 DẦU KHÍ - SỐ 3/2020 
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
Hình 6. Đặc điểm vách ngăn keriotheca họ Schwagerinidae tìm thấy trong giếng khoan SH1
Hình 8. 1. Boultoniinae, 2. Nodosinelloides netschajewi, 3. Nodosinelloides sp. trong giếng khoan SH2; 
4 - 6. Các dạng tảo Koninckopora trong giếng khoan SH1. Thước tỷ lệ 100µm
khung hóa thạch chủ yếu bị thay thế bởi xi măng calcite 
và dolomite, bên trong các phòng cũng bị dolomite hóa 
nhưng vẫn bảo tồn nguyên vẹn cấu trúc của hóa thạch. 
Tổ hợp hóa thạch tìm thấy đặc trưng cho thời kỳ 
Paleozoic muộn (Permian) được phân bố chủ yếu ở khu 
vực Đông Bắc Việt Nam và các vùng lân cận [4, 5]. Các đại 
diện tiêu biểu gồm các giống: Nodosinelloides, Nodosaria, 
Geinitzina, Codonofusiella, Pachyphloia, Rectoglandulina, 
Palaeotextularia, Reichelina, Cribrogenerina và phong phú 
các mảnh của thượng họ Fusulinacae có đặc trưng vách 
ngăn uốn nếp mạnh và tường vỏ keriotheca rất rõ mà tiêu 
biểu là họ Schwagerinidae (Hình 6). Bộ Fusulinida có đặc 
điểm tường vỏ keriotheca phân bố chủ yếu trong tuổi 
Carboniferous muộn (bậc Kasimovian) đến Permian muộn 
(bậc Changhsingian) [6 - 8]. Ngoài ra, các hóa thạch dạng 
tảo cũng rất phong phú chủ yếu là nhóm Konickopora 
(Hình 8 (4 - 6)). Bên cạnh đó, tổ hợp này có mặt rất phong 
phú trong các thành tạo đá vôi ở một số khu vực phía Nam 
Trung Hoa (Meishan, Laibin, bể trầm tích Nanpanjiang), 
Thái Lan, Malaysia, Nhật Bản và Iran đặc trưng cho giai 
đoạn Changhsingian muộn [9 - 11]. 
Hình 7. Sự phân bố hóa thạch trùng lỗ trong giếng khoan SH3
27DẦU KHÍ - SỐ 3/2020 
PETROVIETNAM
Trong một số công trình nghiên cứu về trùng lỗ 
Paleozoic [4, 5] đã ghi nhận sự phân bố của tổ hợp hóa 
thạch ở một số khu vực lộ ra trên lục địa Việt Nam và các 
khu vực lân cận:
Giống Globivalvulina Schubert, 1921 được phân 
bố từ Serpukhovian đến phần muộn nhất Permian [10]. 
Giống Reichelina Erk, 1942 được xác định trong khoảng 
từ Wuchiapingian đến Changhsingian ở vùng Nam 
Hình 9. Hóa thạch đặc trưng tuổi Permian trong giếng khoan SH1. 1 - 3. Nodosinelloides sp. (Mamet và Pinard, 1992) lần lượt tại 3.970m, 4.015m và 4.025m, 4 - 5. Geinitzina sp. (Spandel, 
1901) lần lượt tại 4.030m và 4.005m, 6. Protonodosaria sp. (Gerke, 1959) tại 4.035m, 7. Geinitzina sp. (Spandel, 1901) tại 4.015m, 8 - 9. Sichotenella sp. tại 4.030m, 10. Globivalvulina 
sp. (Schubert, 1921) tại 4.038m, 11. Protonodosaria sp. (Gerke, 1959) tại 4.035m, 12. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 4.035m, 13. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 4.005m, 14. Pachy-
phloia sp. (Lange, 1925) tại 3.985m, 15. Diplosphaerina sp. (Derville, 1952) tại 4.020m, 16. Protonodosaria sp. (Gerke, 1959) tại 4.035m, 17. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 4.025m, 
18. Cribrogenerina sp. (Schubert, 1908) tại 4.035m, 19. Nodosaria sp. (Lamarck, 1812) tại 4.025m, 20. Neodiscus (?) sp. (Miklukho-Maklay, 1953) tại 3.985m, 21. Protonodosaria sp. (Gerke, 
1959) tại 4.030m. Thước tỷ lệ 100µm.
28 DẦU KHÍ - SỐ 3/2020 
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
Hình 10. Hóa thạch đặc trưng tuổi Permian trong giếng khoan SH1. 1. Plectogyra sp. (Ganelina, 1966) tại 3.989m, 2. Climacammina sp. (Brady, 1873) tại 3.989m, 3 - 4. ENDOTHYRIDAE 
(Brady, 1884) tại 4.015m, 5 - 6. Schubertella sp. (Staff và Wedekind, 1910) tại 4.020m và 3.995m, 7. Profusulinella sp. (Rauzer-Chernousova và Belyaev, 1936) tại 4.015m, 8. Palaeotextu-
laria sp. (Schubert, 1921) tại 3.989m, 9 - 10. Fusiella sp. (Lee và Chen, 1930) tại 3.995m và 4.005m, 11. Rectoglandulina sp. (Loeblich và Tappan, 1955) tại 4.035m, 12. Codonofusiella sp. 
(Dunbar và Skinner, 1937) tại 4.005m, 13. Profusulinella sp. tại 4.035m, 14. Schwagerinidae (Dunbar và Henbest, 1930) tại 4.035m. Thước tỷ lệ 100µm.
Trung Hoa [10]. Ở miền Bắc Việt Nam, địa tầng phân bố 
của Reichelina trong Permian muộn chủ yếu ở vùng 
Đông Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn) thuộc hệ tầng Bắc Sơn 
(Wuchiapingian) và Đồng Đăng (Changhsingian) [5]. 
Giống Pachyphloia Lange, 1925 xuất hiện đầu tiên từ 
Sakmarian và biến mất vào phần muộn nhất của Permian 
ở vùng Nam Trung Hoa [10]. Ở Việt Nam, Pachyphloia phân 
bố địa tầng chủ yếu Permian giữa đến muộn và phổ biến 
ở khu vực Đông Bắc thuộc các hệ tầng Bắc Sơn và Đồng 
Đăng, ở thềm lục địa chỉ mới phát hiện ở một số giếng 
khoan Lô 106 [5].
Giống Schubertella Staff và Wedekind, 1910 được 
phát hiện phổ biến ở miền Bắc (Bắc Kạn, Quảng Ninh, 
Thái Nguyên, Quảng Bình) trong khoảng từ Carboniferous 
29DẦU KHÍ - SỐ 3/2020 
PETROVIETNAM
Hình 11. Hóa thạch đặc trưng tuổi Permian trong giếng khoan SH3. 1. Globivalvulina (?) sp. (Schubert, 1921) tại 2.327m, 2. Eoendothyra sp. (Miklukho - Maklay, 1960) tại 2.378m, 3. 
Palaeotextularia (?) sp. (Schubert, 1921) tại 2.378m, 4. Palaeotextularia sp. (Schubert, 1921) tại 2.327m, 5-6. Palaeotextularia sp. (Schubert, 1921) tại 2.378m, 7. Palaeotextularia sp. 
(Schubert, 1921) tại 2.333m, 8. Rectogandulina (?) sp. (Loeblich và Tappan, 1955) tại 2.327m, 9 - 10. Rectogandulina sp. (Loeblich và Tappan, 1955) lần lượt tại 2.378m và 2.540m, 11 - 12. 
Nodosinelloides sp. (Mamet và Pinard, 1992) tại 2.327m, 13. Nodosinelloides sp. (Mamet và Pinard, 1992) tại 2.540m, 14 - 15. Geinitzina sp. (Spandel, 1901) lần lượt tại 2.354m và 2.519m, 
16 - 17. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) lần lượt tại 2.327m và 2.348m, 18-19. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 2.354m, 20. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 2.510m. Thước tỷ lệ 100µm.
muộn (Moscovian) đến Permian thuộc hệ tầng Bắc 
Sơn [5]. Giống Cribrogenerina Schubert, 1908 phân bố 
trong Permian muộn (Changhsingian) thuộc hệ tầng 
Đồng Đăng được tìm thấy ở Cao Bằng, Lạng Sơn [5]. Họ 
Schwagerinidae Dunbar et Henbest, 1930 rất đặc trưng 
cho địa tầng Permian thuộc hệ tầng Bắc Sơn ở khu vực 
phía Bắc (Sơn La, Hà Giang, Lạng Sơn) và cả phía Nam 
(Kiên Giang) thuộc hệ tầng Hà Tiên [5]. 
30 DẦU KHÍ - SỐ 3/2020 
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
Tổ hợp Nodosinelloides - Geinitzina đặc trưng 
cho Permian sớm được ghi nhận ở Iran [12]. Tổ hợp 
Codonofusiella - Reichelina khá phong phú ở vùng Đông Bắc, 
thuộc hệ tầng Bắc Sơn tương ứng với bậc Wuchiapingian 
[4]. Bên cạnh đó, phần muộn nhất của Permian được ghi 
nhận là sự xuất hiện của giống Codonofusiella Dunbar 
et Skinner, 1937 ở miền Nam Nhật Bản [13]. Ở Việt Nam, 
Codonofusiella phân bố trong Permian giữa - muộn của 
các hệ tầng Bắc Sơn, Đồng Đăng, Hà Tiên (Hà Giang, Cao 
Bằng, Điện Biên, Quảng Bình, Kiên Giang).
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy sự tương đồng của 
các tổ hợp hóa thạch trong các giếng khoan SH1, SH2, 
SH3 và có thể liên kết với các khu vực lân cận. Tuy nhiên, 
trong các giếng khoan SH2, SH3, tổ hợp hóa thạch không 
phong phú, chủ yếu là giống Nodosinelloides, Pachyphloia, 
Geinitzina, Rectoglandulina, Palaeotextularia và mảnh hóa 
thạch thuộc phụ họ Boultoniinae (Skinner, 1954) thường 
phong phú trong khoảng tuổi Permian (Hình 8 (1 - 3), 9, 
10 và 11). So sánh với các nghiên cứu trong khu vực lô 
102, 106, 107 thì tổ hợp hóa thạch trùng lỗ được tìm thấy 
trong các giếng khoan SH1, SH2 và SH3 là trẻ nhất trong 
Paleozoic, trong khi các tổ hợp hóa thạch trùng lỗ đặc 
trưng Devonian - Carboniferous được tìm thấy trong các 
giếng khoan lân cận: HR, HRN, PL, HL và DS [14, 15]. 
4. Kết luận 
Các thành tạo móng đá vôi trong khoảng độ sâu khoan 
nghiên cứu ít bị biến đổi, chủ yếu là đá vôi packstone, 
wackestone và mudstone. Đá vôi chứa phong phú tổ hợp 
hóa thạch trùng lỗ với 24 giống và loài được xác định. Các 
tổ hợp này đặc trưng cho tuổi Permian giữa - muộn trong 
khu vực nghiên cứu. Trong đó, sự hiện diện phong phú của 
thượng họ Fusulinacea với đặc điểm vách ngăn có uốn nếp 
mạnh và cấu trúc tường vỏ kiểu keriotheca mà tiêu biểu là 
họ Schwagerinidae. Tổ hợp này được ghi nhận là trẻ nhất 
trong tất cả các giếng khoan được nghiên cứu của Lô 106 
và khu vực lân cận. Ngoài ra, thượng họ Fusulinacae còn 
phân bố chủ yếu trong các khối đá vôi khu vực Đông Bắc 
Việt Nam và các khu vực lân cận phía Nam Trung Hoa.
Thành phần khoáng vật calcite chiếm hàm lượng phổ 
biến trong đá vôi và ít hơn là dolomite, hiếm siderite. Đá 
vôi trải qua quá trình biến đổi sau trầm tích do bị tác động 
bởi sự nén ép, hoạt động thủy nhiệt và sự xâm nhập của 
các đai mạch silicite tạo nên các dạng lỗ rỗng nứt nẻ, lỗ 
rỗng hòa tan và lỗ rỗng giữa các khoáng dolomite. Trong 
đó, lỗ rỗng dạng nứt nẻ là chủ yếu nhưng bị lấp đầy bởi 
các khoáng vật thứ sinh: calcite và dolomite, điều này làm 
hạn chế khả năng chứa của đá. 
Tài liệu tham khảo
1. Ian Metcalfe. Palaeozoic-Mesozoic history of SE 
Asia. The SE Asian Gateway: History and Tectonics of the 
Australia-Asia Collision. 2011; 355: p. 7 - 35. 
2. Nguyễn Thị Dậu và nnk. Đánh giá tiềm năng bể 
Sông Hồng thuộc Dự án: “Đánh giá tiềm năng dầu khí trên 
vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Tập đoàn Dầu khí Việt 
Nam. 2012. 
3. L.H.Nielsen, H.I.Petersen, N.D.Thai, N.A.Duc, 
M.B.W.Fyhn, L.O.Boldreel, H.A.Tuan, S.Lindström, L.V.Hien. 
A Middle-Upper Miocene fluvial-lacustrine rift sequence in 
the Song Ba rift, Vietnam: An analogue to oil-prone, small-
scale continental rift basins. Petroleum Geoscience. 2007; 
13: p. 145 - 168. 
4. Đặng Trần Huyên. Địa tầng các trầm tích Phanerozoi 
ở Đông Bắc Bộ. Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản. 
2007. 
5. Đoàn Nhật Trưởng. Atlas cổ sinh vật Việt Nam (Tập 
Trùng lỗ). Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản. 2012. 
6. Daniel Vachard. New SEM obdervations of 
Keriothecal walls: Implications for the evolution of Fusulinid. 
Journal of Foraminiferal Research. 2004; 34(3): p. 232 - 242. 
7. Alfred R.Loeblich, Helen Tappan. Foraminifera 
genera and their classification. Journal of Foraminiferal 
Research. 1988; 18(3): p. 271 - 274. 
8. J.R.Groves. Suborder Lagenide and other smaller 
foraminifers form uppermost Pennysylvanian-lower Permi 
rocks of Kansas and Oklahoma. Micropaleontology. 2000; 
46(4): p. 285 - 326. 
9. Haijun Song, Jin-Nan Tong, Ke-Xin Zhang, Qin-Xian 
Wang, ZHong-Qiang Chen. Foraminiferal survivors from 
the Permian-Triassic mass extinction in the Meishan section, 
South China. Palaeoworld. 2007; 16: p. 105 - 119. 
10. Jérémie Gaillot, Daniel Vachart, Thomas Galfetti, 
Rossana Martini. New latest Permian foraminifers from Laren 
(Guangxi Province, South China): Palaeobiogeographic 
implications. Geobios. 2009; 42(2): p. 141 - 168. 
11. ZHong-Qiang Chen, Annette D.George, W-R.
Yang. Effects of Middle-Late Permian sea-level changes and 
mass extinction on the formation of the Tieqiao skeletal 
mound in the Laibin area, South China. Australian Journal 
of Earth Sciences. 2009; 56(6): p. 745 - 763. 
12. Hamed Yarahmadzahi, Daniel Vachard, Bahareh. 
Dibadin. Smaller foraminifers from the lower permian 
31DẦU KHÍ - SỐ 3/2020 
PETROVIETNAM
Summary
The paper presents a detailed stratigraphic study of some wells which drilled through carbonate basement formations by analising 
larger benthic foraminifera assemblages and lithological characteristics of carbonate rock. The results show that the limestone formations 
are mainly packstone, wackestone and mudstone which contain abundant fossilised coincidence characteristic for the Permian period 
(Wuchiapingian - Changhsingian). The petrographic composition of the rock has been less altered so most of the fossil traces are quite 
well preserved, in which the fossil frames were replaced by calcite and dolimite cement. The pores are formed mainly by the compression 
of the blocky carbonate basements and they are filled by calcite, dolomite and silicon due to the influence of magma and hydrothermal 
activities. 
Key words: Foraminifera fossils, carbonate basement, stratigraphy, packstone, wackestone, mudstone.
CHARACTERISTIC OF PETROLOGY AND DISTRIBUTION OF LARGER 
BENTHIC FORAMINIFERA OF PERMIAN CARBONATE IN THE SOUTHERN 
PART OF BLOCK 106, SONG HONG BASIN 
Mai Hoang Dam, Vu Thi Tuyen
Vietnam Petroleum Institute
Email: dammh@vpi.pvn.vn
emarat formation, east of Firuzkuh (Central Alborz, Iran). 
Research in Paleontology and Stratigraphy. 2016; 122(3): 
p. 103 - 118. 
13. Ursula Leppig. Codonofusiella (Fusulinidae): 
Shell architecture and its functional meaning. Marine 
Micropaleontology. 1995; 26(1 - 4): p. 461 - 467. 
14. Nguyễn Văn Săng Vô, Mai Hoàng Đảm. Xây 
dựng bản ảnh hóa thạch trùng lỗ (foraminifera) trong đá 
carbonate trước Cenozoic ở đảo Cát Bà, Hải Phòng và trong 
một số giếng khoan phía bắc bể Sông Hồng. VPI. 2016.
15. PVEP-ITC. Đề án nghiên cứu địa chất, địa vật lý của 
móng carbonate trước Cenozoic ở các lô 102/10 và 106/10. 
2014.
16. L.van der Plas, A.C.Tobi. A chart for judging the 
reliability of point counting results. American Journal of 
Science. 1965; 263: p. 87 - 90.
17. Liêu Kim Phượng, Bùi Thị Luận, Vũ Thị Tuyền. 
Nghiên cứu thạch học và sự biến đổi sau trầm tích của đá 
móng carbonate tuổi Paleozoic ở phía Tây Bắc bể Sông 
Hồng. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 2019; 
61(8): trang 1 - 6.
18. M.Soloman, R.Green. A chart for designing modal 
analysis by point counting. Geologische Rundsch. 1966; 55: 
p. 844 - 848.
19. M.E.Tucker. Shallow-marine carbonate facies and 
facies models. Geological Society. 1985; 18: p. 147 - 169.
20. Marcelle K.Boudagher-Fadel. Evolution and 
geological significance of larger benthic foraminifera. 
Developments in Palaeontology & Stratigraphy. 2008.
21. Peter A.Scholle, Dana S.Ulmer-Scholle. A color 
guide to the petrography of carbonate rocks: Grains, textures, 
porosity, diagenesis. American Association of Petroleum 
Geologist Tulsa. 2003; 77: p. 372 - 375.
22. Robert J.Dunham. Classification of carbonate 
rocks according to depositional textures. American 
Association of Petroleum Geologist (AAPG) Memoir. 1962; 
1: p. 108 - 121.
23. VPI. Petrography report from the 106-YT-2X. 2009.
24. VPI. Petrography report from the 106/10-HRD-
1XST. 2016.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_thach_hoc_va_su_phan_bo_cua_trung_lo_trong_da_voi_p.pdf