Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1

Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” bắt đầu thu gom và vận chuyển khí đồng hành vào bờ từ giữa năm 1995. Đến 31/12/2019,

Vietsovpetro đã thu gom, xử lý và cung cấp vào bờ hơn 35 tỷ m3 khí, trong đó, hơn 22 tỷ m3 từ các mỏ dầu khí ở Lô 09-1. Bài báo giới thiệu

sự hình thành hệ thống thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành tại các mỏ của Vietsovpetro ở Lô 09-1 và các giải pháp kỹ thuật công

nghệ để vận chuyển khí đồng hành vào bờ

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 1

Trang 1

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 2

Trang 2

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 3

Trang 3

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 4

Trang 4

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 5

Trang 5

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 6

Trang 6

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 7

Trang 7

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 8

Trang 8

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1 trang 9

Trang 9

pdf 9 trang viethung 11380
Bạn đang xem tài liệu "Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1

Công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” tại lô 09-1
40 DẦU KHÍ - SỐ 9/2020 
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
CÔNG NGHỆ THU GOM, XỬ LÝ VÀ VẬN CHUYỂN KHÍ ĐỒNG HÀNH Ở CÁC MỎ 
DẦU KHÍ CỦA LIÊN DOANH VIỆT - NGA “VIETSOVPETRO” TẠI LÔ 09-1
TẠP CHÍ DẦU KHÍ
Số 9 - 2020, trang 40 - 48
ISSN 2615-9902
Tống Cảnh Sơn1, Cao Tùng Sơn1, Lê Việt Dũng1, Lê Đăng Tâm1, Phạm Thành Vinh1, Phùng Đình Thực2, Nguyễn Thúc Kháng2
1Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro”
2Hội Dầu khí Việt Nam
Email: sontc.rd@vietsov.com.vn
Tóm tắt
Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” bắt đầu thu gom và vận chuyển khí đồng hành vào bờ từ giữa năm 1995. Đến 31/12/2019, 
Vietsovpetro đã thu gom, xử lý và cung cấp vào bờ hơn 35 tỷ m3 khí, trong đó, hơn 22 tỷ m3 từ các mỏ dầu khí ở Lô 09-1. Bài báo giới thiệu 
sự hình thành hệ thống thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng hành tại các mỏ của Vietsovpetro ở Lô 09-1 và các giải pháp kỹ thuật công 
nghệ để vận chuyển khí đồng hành vào bờ.
Từ khóa: Khí đồng hành, thu gom, xử lý, vận chuyển, Lô 09-1, bể Cửu Long.
1. Giới thiệu 
Đốt bỏ khí đồng hành gây lãng phí nguồn tài nguyên 
thiên nhiên. Ước tính, mỗi năm trên thế giới có khoảng 
150 tỷ m3 khí đồng hành bị đốt bỏ, tương đương 10 tỷ 
USD doanh thu bán khí với mức giá 2 USD/triệu Btu. 
Vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, các công ty khai 
thác dầu khí trên thế giới đã đẩy mạnh việc thu gom, xử lý 
và sử dụng khí đồng hành. Mỹ, Canada, Na Uy và các nước 
khác đã xây dựng ngành công nghiệp khí đồng hành với 
mức độ sử dụng lên đến 95% hoặc cao hơn [1]. 
Ở Việt Nam, khai thác dầu khí được Vietsovpetro thực 
hiện từ năm 1986 ở mỏ Bạch Hổ, Lô 09-1, ngoài khơi thềm 
lục địa Việt Nam. Quy hoạch mỏ ban đầu do các chuyên 
gia Liên Xô đề xuất: không thu gom khí đồng hành, mà 
đốt bỏ trên đuốc ở các giàn khai thác cố định (MSP) và 
các giàn công nghệ trung tâm (CTP) ngoài khơi. Từ giữa 
năm 1995, Vietsovpetro đã bắt đầu thực hiện thu gom 
khí đồng hành mỏ Bạch Hổ và vận chuyển vào bờ, mở ra 
kỷ nguyên sử dụng khí đồng hành cho các ngành công 
nghiệp ở Việt Nam. 
2. Cơ sở hình thành hệ thống công nghệ thu gom, xử lý 
và vận chuyển khí đồng hành ở các mỏ dầu khí ngoài 
khơi, Lô 09-1
Năm 1991, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam 
(Petrovietnam) giao nhiệm vụ cho Công ty Khí đốt Việt 
Nam (tiền thân của Tổng công ty Khí Việt Nam - PV GAS) 
với vai trò là chủ đầu tư phối hợp với Vietsovpetro lập 
luận chứng kinh tế kỹ thuật hệ thống thu gom và vận 
chuyển khí đồng hành mỏ Bạch Hổ vào bờ. Trên cơ sở đó, 
Vietsovpetro đã giao nhiệm vụ cho Viện Nghiên cứu Khoa 
học và Thiết kế Dầu khí biển (NIPI) thực hiện đề tài này với 
đề xuất như sau:
- Tận dụng hợp lý nguồn tài nguyên là một trong 
những nhiệm vụ cấp bách cho phát triển kinh tế xã hội 
của Việt Nam, đặc biệt đối với khu vực phía Nam, nơi đang 
thực hiện khai thác dầu và khí ở mỏ Bạch Hổ, ngoài khơi 
Lô 09-1.
- Khí đồng hành bị đốt bỏ ở đuốc trên các giàn khai 
thác ngoài khơi cần được sử dụng tối đa, mục đích đầu 
tiên là làm nhiên liệu của các trạm phát điện, phục vụ cho 
nhu cầu phát triển công nghệ ở nội bộ mỏ Bạch Hổ, tối ưu 
hóa các quá trình khai thác dầu khí, gia tăng hệ số thu hồi 
dầu. Phần còn lại, vận chuyển vào bờ cho nhu cầu nhiệt 
điện và các ngành công nghiệp khác.
- Nội dung chính của luận chứng kinh tế là sớm đưa 
khí vào bờ, đáp ứng nhu cầu nhiên liệu cho các nhà máy 
nhiệt điện ở phía Nam Việt Nam và nguyên liệu cho các 
nhà máy sản xuất hóa chất.
Ngày nhận bài: 19/3/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 19/3 - 26/5/2020. 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/7/2020.
41DẦU KHÍ - SỐ 9/2020 
PETROVIETNAM
- Kết quả phân tích thành phần khí đồng hành mỏ 
Bạch Hổ cho thấy, khí hydrocarbon tách ra có chất lượng 
cao với hàm lượng condensate lớn, cho phép xây dựng 
nhà máy chế biến khí hóa lỏng (LPG), cung cấp sản phẩm 
có giá trị cho thị trường trong nước và thế giới. Bên cạnh 
đó, việc sử dụng khí khô (thành phần chính là hỗn hợp khí 
methane và ethane) cho nhu cầu công nghiệp ở Việt Nam 
sẽ thay thế được các nguồn nguyên liệu lỏng khác đang 
phải nhập ngoại.
- Cơ sở để xem xét trong luận chứng kinh tế kỹ thuật 
trên là nguồn khí đồng hành ở mỏ Bạch Hổ, Rồng và Đại 
Hùng; 8 phương án thu gom, xử lý và vận chuyển khí đồng 
hành ngoài khơi Lô 09-1 đến Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh đã 
được xem xét [2]. Việc đánh giá hiệu quả kinh tế trong 
luận chứng dựa trên các phương án sử dụng số liệu của 
nguồn khí đồng hành ở mỏ Bạch Hổ và Rồng.
- Trong luận chứng không đề xuất việc sản xuất LPG. 
Tuy nhiên, trong đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án vận 
chuyển khí vào bờ đã tính đến xây dựng nhà máy sản xuất 
LPG tại tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu.
- Kết quả cho thấy, sớm triển khai dự án thu gom và 
sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ, Rồng và vận chuyển 
vào bờ sẽ có hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt cho phát triển 
kinh tế của các tỉnh phía Nam Việt Nam.
- Đề xuất triển khai dự án thu gom và tận dụng khí 
đồng hành mỏ Bạch Hổ và Rồng bằng cách xây dựng hệ 
thống thu gom và vận chuyển đến Thủ Đức, Tp. Hồ Chí 
Minh để cung cấp khí cho các nhà máy nhiệt điện và nhà 
máy sản xuất hóa chất, gồm các hạng mục chính sau: Hệ 
thống thu gom khí đồng hành ở mỏ Bạch Hổ và Rồng, các 
giàn nén khí ở mỏ Bạch Hổ và Rồng, và đường ống dẫn khí 
Bạch Hổ - Thủ Đức Tp. Hồ Chí Minh.
3. Các giải pháp công nghệ thu gom, xử lý và vận 
chuyển khí đồng hành vào bờ
Quá trình triển khai, thực hiện theo luận chứng kinh 
tế kỹ thuật về hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch 
Hổ - Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh sẽ tốn rất nhiều thời gian. 
Trong khi đó, Vietsovpetro đã đưa tầng móng mỏ Bạch Hổ 
vào khai thác từ giữa năm 1988, với trữ lượng thu hồi và 
nguồn năng lượng vỉa rất lớn. Sản lượng khai thác dầu và 
khí mỏ Bạch Hổ gia tăng đáng kể. Lượng khí đồng hành 
tách ra ở ngoài khơi cũng tăng mạnh, nhưng đều bị đốt bỏ 
trên các công trình biển. Để giảm đốt bỏ khí đồng hành 
tách ra ở ngoài khơi mỏ Bạch Hổ, việc nghiên cứu đề ra 
giải pháp sử dụng và vận chuyển vào bờ thực sự cần thiết 
và cấp bách. Các giải ph ...  mức 4,2 - 4,3 triệu m3/ngày. Như 
vậy, phần lớn lượng khí đồng hành cao áp tách ra trên các 
BK, MSP và CTP ở mỏ Bạch Hổ đã được thu gom. Khi Nhà 
máy Nhiệt điện Phú Mỹ 2 được đưa vào hoạt động, lưu 
lượng khí vận chuyển vào bờ đạt mức 5,6 triệu m3/ngày.
3.4. Giải pháp thu gom khí áp suất thấp ở mỏ Bạch Hổ
 Khí thấp áp (khí từ bình tách BE) trên các giàn cố định 
và các giàn trung tâm ở mỏ Bạch Hổ bị đốt bỏ trên các 
đuốc. Để thực hiện thu gom và sử dụng khí thấp áp tách ra 
ở mỏ Bạch Hổ, Vietsovpetro đã nghiên cứu và sử dụng giải 
pháp vận chuyển dầu bão hòa khí. Nghĩa là, dầu tách ra từ 
các bình tách cao áp (NGS) trên MSP, sẽ không đi qua bình 
tách thấp áp và máy bơm, mà chuyển thẳng đến giàn cố 
định MSP bên cạnh và tiếp tục đến MSP kế tiếp, sau cùng 
đến giàn thu gom khí thấp áp trung tâm (điểm cuối của 
quá trình thu gom khí thấp áp). Ở khu vực phía Bắc mỏ 
Bạch Hổ, MSP-4 và MSP-9 được quy định là các giàn thu 
gom khí thấp áp trung tâm, sẽ thực hiện tách khí thấp áp 
sau cùng trong bình tách BE-100 m3 để thu gom. Ở khu 
vực phía Nam, dầu bão hòa khí sau bình UPOG trên các BK 
được vận chuyển đến CTP-2 và CTP-3. Tại đây, thực hiện 
tách khí thấp áp để thu gom. Sau khi nghiên cứu lưu lượng 
chất lỏng dự kiến khai thác tại Sơ đồ công nghệ phát triển 
mỏ Bạch Hổ năm 2003 và 2008, Vietsovpetro đã đề xuất 
thiết kế và xây dựng các trạm nén khí tăng áp trên giàn 
MSP-4 và MSP-9 với tổng công suất dự kiến là 36 nghìn 
m3/ngày (18.000 m3/ngày/máy) và trên CTP-2 và CTP-3 các 
máy tăng áp công suất 150 nghìn m3/ngày/máy. Khí sau 
trạm tăng áp trên MSP-4 và MSP-9 có áp suất 13 - 14 atm, 
khí sau máy tăng áp trên CTP-2 và CTP-3 có áp suất 11 - 12 
atm, được vận chuyển đến CCP, cụ thể như sau:
 + Thu gom khí thấp áp trên MSP-4: Sản phẩm khai 
thác trên các giàn MSP-7, MSP-5 và MSP-3 sau khi tách 
khí cấp 1 (NGS) được vận chuyển ở dạng bão hòa khí đến 
MSP-4 theo tuyến ống MSP-7 → MSP-5 → MSP-3 → MSP-
4 (không qua bình tách BE). Sản phẩm ThCT-1 và MSP-6 
sau khi qua bình tách NGS trên MSP-6 ở dạng bão hòa khí 
được vận chuyển đến MSP-4. Trên MSP-4 thực hiện tách 
khí thấp áp trong BE ở áp suất 0,5 - 1 atm. Khí sau bình 
tách BE-100 m3 trên MSP-4, được đưa vào máy tăng áp, để 
nén lên áp suất 13 atm và vận chuyển đến giàn CCP bên 
cạnh CTP-2 để tiếp tục nén lên 125 atm;
 + Thu gom khí thấp áp trên MSP-9: Tương tự như 
MSP-4, trên MSP-10 thực hiện tách khí bậc 1 trong NGS 
sản phẩm khai thác của BK-15 và MSP-10, sau đó ở dạng 
bão hòa khí vận chuyển đến MSP-9. Trên MSP-9 thực hiện 
tách khí thấp áp trong bình 100 m3 ở áp suất 0,5 - 1,5 atm. 
Khí tách ra được chuyển đến máy tăng áp, nén lên áp suất 
13 atm và vận chuyển về giàn nén khí trung tâm CCP;
 + Thu gom khí thấp áp trên CTP-2 và CTP-3: Trên CTP-
2 và CTP-3 thực hiện tách dầu bão hòa khí đến từ BK-1, 
BK-2, BK-3, BK-4, BK-5, BK-6, BK-8, BK-9, mỏ Thỏ Trắng, Gấu 
Trắng, BK-14 và BK-16. Lưu lượng khí thấp áp tách ra sau 
các bình tách BE-100 m3 trên các giàn này rất lớn. Vì vậy, để 
thu gom toàn bộ lượng khí thấp áp tách ra trên các CTP-2 
và CTP-3, Vietsovpetro đã nghiên cứu lắp đặt các bộ máy 
tăng áp tại đây với công suất nén mỗi giàn là 150 nghìn 
m3/ngày. Khí thấp áp được nén lên áp suất 11 atm, sau đó 
chuyển đến giàn CCP để nén lên đến 125 atm.
Như vậy, với các giải pháp lắp đặt máy tăng áp trên 
MSP-4 và MSP-9, CTP-2 và CTP-3 và sử dụng phương pháp 
vận chuyển dầu bão hòa khí giữa các MSP đến MSP và từ 
các BK đến CTP-2 và CTP-3 để thu gom khí thấp áp, mỏ 
Bạch Hổ đã thực hiện thu gom đến hơn 90% khí đồng 
hành tách ra từ các công trình khai thác ở mỏ Bạch Hổ.
3.5. Giải pháp thu gom, vận chuyển và sử dụng khí đồng 
hành mỏ Rồng 
Mỏ Rồng đi vào hoạt động từ năm 1994, bắt đầu từ 
giàn khai thác cố định RP-1, sau đó là RP-3 và RP-2. Hiện 
nay, mỏ Rồng có 8 giàn nhẹ: RC-1/RC-3, RC-2, RC-4, RC-5, 
RC-6, RC-9 và RC-ĐM. Trên RP-1 thực hiện tách khí của sản 
phẩm đến từ RC-1/RC-3, RC-4, RC-5, RC-6, RC-9 và RC-ĐM. 
RP-3 tách khí của sản phẩm đến từ RC-2 và chính RP-3. Trên 
RP-2, tách khí của sản phẩm khai thác trên RP-2 và của mỏ 
46 DẦU KHÍ - SỐ 9/2020 
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
Cá Tầm. Giai đoạn đầu, khí đồng hành tách ra trên các công 
trình khai thác ở mỏ này bị đốt bỏ tại các đuốc của RP-1, 
RP-2 và RP-3. Việc thu gom khí đồng hành tách ra ở mỏ 
Rồng được Vietsovpetro nghiên cứu bằng đề xuất thiết kế 
và xây dựng giàn nén khí Rồng (KPD) bên cạnh RP-3.
Được sự chấp thuận của Petrovietnam và PV GAS (với 
vai trò là chủ đầu tư), từ đầu năm 2009, Vietsovpetro đã 
triển khai dự án thu gom và nén khí mỏ Rồng với công 
suất nén dự kiến 900.000 - 1 triệu m3/ngày. Giàn nén khí 
KPD được thiết kế và xây dựng để thu gom khí cao áp 
(NGS) trên các giàn RP-1, RP-2 và RP-3 và khí từ UPOG trên 
các RC, cụ thể như sau:
 + Khí cao áp tách ra trên RC-DM, RC-5 và RC-9 được 
thu gom đến RC-4, sau đó cùng khí RC-4 vận chuyển đến 
RP-3 rồi KPD; 
 + Khí cao áp tách ra trên các RP-2, RP-1 và RP-3 được 
chuyển đến KPD.
Khí sau giàn nén khí KPD có áp suất 110 atm, được sử 
dụng cho nhu cầu nội bộ mỏ Rồng (thay thế khí gaslift 
từ giàn nén CCP mỏ Bạch Hổ). Sau khi đi vào hoạt động, 
với công suất nén khí khoảng 900 nghìn m3/ngày, giàn 
KPD vẫn không đáp ứng đủ để thu gom toàn bộ lượng 
khí đồng hành tách ra trên các RC và RP ở mỏ Rồng. Việc 
tăng thêm lưu lượng thu gom và tận dụng khí đồng hành 
ở mỏ Rồng, được Vietsovpetro đề xuất nghiên cứu lắp đặt 
các máy tăng áp (booster) công suất 500 nghìn m3/ngày/
máy, trên KPD và RP-3. Các máy tăng áp sẽ thực hiện thu 
gom khí cao áp RP-3 và RP-2 còn dư của KPD và nén đến 
áp suất 25 atm, sau đó vận chuyển đến CCP mỏ Bạch Hổ 
qua đường ống RP-3→RC-1→BT-7→CTP-3→CTP-2→CCP. 
Để tối ưu hóa và tận thu khí đồng hành tách ra tại các các 
công trình mới xây dựng ở mỏ Bạch Hổ, trên đường đi của 
đường ống RP-3→RC-1→BT-7→CTP-3→CTP-2→CCP mỏ 
Bạch Hổ, đã tiếp nhận thêm khí đồng hành cao áp tách ra 
từ UPOG của các BK-14 và BK-16.
4. Thực trạng hệ thống thu gom, xử lý và vận chuyển 
khí đồng hành tại các mỏ dầu và khí ở Lô 09-1 của Viet-
sovpetro
Hiện nay, phần lớn khí đồng hành khai thác tại mỏ 
Bạch Hổ đã được thu gom và sử dụng, như sau: 
 + Giàn nén khí nhỏ MKS mỏ Bạch Hổ thực hiện thu 
gom khí cao áp tách ra từ sản phẩm khai thác trên MSP-7, 
MSP-5, MSP-3, MSP-4, MSP-6 và khí sau máy tăng áp trên 
MSP-4;
 + Giàn nén trung tâm CCP thực hiện thu gom khí cao 
áp trên MSP-1 (gồm BK-7, MSP-8, MSP-9, MSP-10, MSP-11), 
khí sau UPOG trên ThTC-1 và ThTC-2, khí từ UPOG trên các 
BK (BK-6, BK-9, BK-14, GTC-1, BK-16, BK-8, BK-17, BK-4) và 
khí sau máy tăng áp trên MSP-9 và CTP-2 & CTP3. Ngoài 
ra, trên CCP còn tiếp nhận khí đồng hành đến từ các mỏ, 
như: Tê Giác Trắng, Hải Sư Đen, Hải Sư Trắng, Sư Tử Đen, 
Rạng Đông, Cá Ngừ Vàng Sơ đồ nguyên lý hệ thống 
thu gom và vận chuyển khí hiện tại ở Lô 09-1, các mỏ của 
Vietsovpetro được trình bày trong Hình 3. 
Như vậy, theo sơ đồ hiện hữu, giàn MKS và CCP ở mỏ 
Bạch Hổ tiếp nhận khí đồng hành từ 4 trung tâm trung 
chuyển, gồm: MSP-4, MSP-9, CTP-2 và CTP-3. Trong đó, 
CTP-3 thực hiện tách khí của sản phẩm đến từ BK-6, BK-9, 
BK-14, GTC-1, BK-16, BK-8, BK-17, BK-4, và BK-CNV và CTP-
2 thực hiện tách khí của sản phẩm đến từ BK-2, BK-5 và 
BK-6. Ngoài ra, khí mỏ Rồng sau các máy tăng áp trên KPD 
và RP-3 cũng được đưa đến CCP qua đường ống fastrack 
Rồng - Bạch Hổ. 
Giàn nén khí KPD tiếp nhận khí sau bình UPOG trên 
RC-DM, RC-4, RC-5/RC-9, như sau:
 + Khí từ UPOG trên RC-DM, RC-5 và RC-9 được vận 
chuyển đến RC-4, rồi cùng khí RC-4 đến RP-3 qua KPD 
theo đường ống RC-DM → RC-4 → RP-3;
 + Khí RP-1 và RC-6 sau bình tách cao áp trên RP-1 
được vận chuyển đến KPD theo đường ống RP-1→RP-3 
đến KPD;
 + Khí trên giàn RP-2, được vận chuyển đến giàn KPD 
bằng đường ống RP-2 - RP-3.
KPD mỏ Rồng đảm bảo cung cấp khí gaslift cho các 
giếng ở mỏ Rồng và một phần mỏ Đồi Mồi. Sự thiếu hụt 
khí gaslift ở mỏ Rồng được bù đắp nhờ khí từ giàn nén 
CCP mỏ Bạch Hổ vận chuyển theo tuyến đường khí cao 
áp CCP → BK-6 → CTK-3 → BK-9 → BK-8 và CCP → MSP-1 
→ BK-1/10 → BK-5 → BK-4 → BK-8 → RC-1 → RP-2 → KPD. 
Để tiếp tục thu gom khí cao áp ở mỏ Rồng, 2 máy tăng 
áp công suất 500 nghìn m3/ngày/máy được thiết kế và lắp 
đặt trên RP-3 và KPD, thu gom và nén khí đến áp suất 25 
atm. Khí sau máy tăng áp được vận chuyển sang mỏ Bạch 
Hổ đến CCP. Như vậy, phần lớn khí cao áp tách ra ở mỏ 
Rồng đã được thu gom, ngoại trừ khí thấp áp hiện đang 
bị đốt bỏ. 
Đến thời điểm hiện tại, với việc vận hành các giàn nén 
khí MKS, CCP ở mỏ Bạch Hổ và KPD ở mỏ Rồng, các máy 
tăng áp trên MSP-4, MSP-9, CTP-2, CTP-3 và trên KPD, RP-3, 
các đường ống dẫn khí Bạch Hổ vào bờ, phần lớn khí cao 
áp tách ra ở mỏ Bạch Hổ, Rồng, Thỏ Trắng và Gấu Trắng đã 
47DẦU KHÍ - SỐ 9/2020 
PETROVIETNAM
được thu gom, cung cấp cho nhu cầu nội bộ các mỏ của 
Lô 09-1, khai thác dầu bằng gaslift, vận chuyển vào bờ cho 
các nhà máy nhiệt điện Bà Rịa, Phú Mỹ và các nhà máy sản 
xuất phân đạm, hóa chất dầu khí. Tính đến cuối năm 2019, 
việc tối ưu hóa công tác thu gom, xử lý và vận chuyển khí 
đồng hành các mỏ ở Lô 09-1 đã giúp Vietsovpetro tận 
thu đến trên 90% khí đồng hành tách ra, góp phần đáng 
kể cho việc tận thu nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng 
cao hiệu quả khai thác dầu khí, đóng góp đáng kể cho sự 
nghiệp phát triển ngành công nghiệp khí nước nhà.
5. Kết luận
- Việc nghiên cứu sử dụng nguồn năng lượng vỉa 
cao của các giếng dầu tầng móng mỏ Bạch Hổ đã cho 
phép Vietsovpetro sớm thu gom và vận chuyển thành 
công 1 triệu m3 khí/ngày vào bờ không cần giàn nén khí, 
Sư Tử Đen 
Rạng Đông
Tê Giác Trắng
Cá Ngừ Vàng Thiên Ưng
Hỗn hợp lỏng khí
Khí đến giàn nén
Khí đến giàn nén nhỏ
Khí đến giàn nén Rồng
Đại Hùng
MSP-7
MSP-5
MSP-3
MSP-9
MSP-11BK-3BK-7MSP-1
BK-10BK-2
CTP-2CPP
BK-6
CTP-3
BK-9
BK-4
BK-8
BK-14
BK-17
BK-16RC-7
RC-1 RC-3
GTC-1
BK-4A
BT-7
BK-5
BK-1
ThTC-1
MSP-6
MSP-4
BK-15
MSP-10
MKS
ThTC-3
ThTC-2
MSP-8
Vào bờ
RC-6
RC-5
RC-4
RC-DM
RC-9 RC-2 RP-3
RP-2
KPD
RP-1
Hình 3. Sơ đồ vận chuyển khí hiện tại ở các mỏ Bạch Hổ và Rồng, Lô 09-1
48 DẦU KHÍ - SỐ 9/2020 
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
đến Nhà máy Nhiệt điện Bà Rịa, thay thế nguồn nguyên 
liệu dầu DO nhập ngoại. Thành công này đánh dấu lần 
đầu tiên vào năm 1995 Việt Nam sử dụng khí đồng hành 
cho các nhà máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp 
khí ở Việt Nam.
- Giải pháp công nghệ gia tăng sản lượng khí vận 
chuyển vào bờ bằng cách sử dụng ở quy mô lớn các bộ 
phối trộn ejector, hòa dòng khí sau bình tách ở điều kiện 
áp suất thấp (28 atm) với dòng khí của giàn nén khí nhỏ 
MKS có áp suất cao (105 atm) để được dòng khí có áp 
suất 57 - 58 atm, đảm bảo vận chuyển được 2 triệu m3 
khí/ngày vào bờ, cung cấp nhiên liệu cho Nhà máy Nhiệt 
điện Phú Mỹ.
- Việc nghiên cứu, áp dụng giải pháp thu gom khí 
thấp áp ở các giàn khai thác cố định MSP và giàn công 
nghệ trung tâm CTP của mỏ Bạch Hổ, bằng cách sử dụng 
phương pháp vận chuyển dầu bão hòa khí sau bình tách 
cấp 1, không qua bình tách cấp 2, đến giàn thu gom trung 
tâm để tách khí thấp áp và lắp đặt máy tăng áp, đã cho 
phép Vietsovpetro lần đầu thu gom khí thấp áp ở mỏ Bạch 
Hổ, góp phần giảm thiểu đốt bỏ khí đồng hành ở ngoài 
khơi Lô 09-1.
- Việc hình thành hệ thống thu gom, xử lý, vận 
chuyển và sử dụng khí đồng hành ở các mỏ Bạch Hổ và 
Rồng của Vietsovpetro tại Lô 09-1 đã mở ra những cơ hội 
lớn trong đầu tư và phát triển thu gom khí đồng hành từ 
các mỏ dầu lân cận hiện Petrovietnam đã, đang và sẽ khai 
thác tại thềm lục địa Nam Việt Nam. 
- Đến nay, hệ thống thu gom, xử lý và vận chuyển 
khí đồng hành tại các mỏ Bạch Hổ và Rồng ở Lô 09-1 
ngày càng hoàn thiện, mang đến cho Vietsovpetro kết 
quả sử dụng khí đồng hành hiệu quả đến trên 90%, mà 
trước đây phải đốt bỏ 100% ngoài khơi. Các công trình 
của Vietsovpetro tại Lô 09-1, thực sự đã trở thành trung 
tâm lưu chuyển khí và kết nối các mỏ như: Rồng, Rạng 
Đông, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng, Hải Sư Đen, Hải 
Sư Trắng, Tê Giác Trắng, Cá Ngừ Vàng, Thiên Ưng, Đại Hùng 
tại thềm lục địa phía Nam Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
[1] В.И.Фейгин, О.Б.Брагинский, С.А.Заболотский, 
И.Г.Кукушкин, A.B.Mаевский, H.И.Mасленникoв, 
Ю.Г.Pыкoв Исследование состояния и перспектив 
направлений переработки нефти и газа, нефте- и 
газохимии в РФ. Библиотека Института современного 
развития. Мocква: Экон-информ, 2011. 
[2] “Luận chứng kinh tế kỹ thuật hệ thống thu gom 
và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức Tp. Hồ Chí Minh”, 
Vũng Tàu, 1991.
[3] Phùng Đình Thực và Hà Văn Bích, “Áp suất tới hạn 
của hỗn hợp dầu - khí - nước và chế độ làm việc của hệ 
thống khai thác thu gom và vận chuyển dầu khí”, Tạp chí 
Dầu khí, Số 1, tr. 19 - 24, 1995.
[4] В.И.Фейгин, О.Б.Брагинский, С.А.Заболотский, 
И.Г.Кукушкин и др. Аналитический доклад, “Условия и 
перспективы развития нефтегазохимии в Российской 
Федерации”, Институт современного развития при 
участии Института энергетики и финансов, 2010.
Summary
Vietsovpetro Joint Venture started gathering and transporting associated gas ashore in mid-1995. By 31 December 2019, Vietsovpetro 
had gathered, processed and supplied more than 35 billion m3 of gas, of which more than 22 billion m3 coming from the oil and gas fields in 
Block 09-1. The paper introduces the formation of the gathering, processing and transportation system for associated gas at Vietsovpetro's 
fields in Block 09-1 and the engineering solutions to transport associated gas ashore.
Key words: Associated gas, gathering, processing, transporting, Block 09-1, Cuu Long basin.
GATHERING, PROCESSING AND TRANSPORTING TECHNOLOGY FOR 
ASSOCIATED GAS FROM VIETSOVPETRO’S OIL AND GAS FIELDS IN 
BLOCK 09-1
Tong Canh Son1, Cao Tung Son1, Le Viet Dung1, Le Dang Tam1, Pham Thanh Vinh1, Phung Dinh Thuc2, Nguyen Thuc Khang2
1Vietsovpetro
2Vietnam Petroleum Association
Email: sontc.rd@vietsov.com.vn

File đính kèm:

  • pdfcong_nghe_thu_gom_xu_ly_va_van_chuyen_khi_dong_hanh_o_cac_mo.pdf