Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển

Trong bối cảnh người Hoa đến các nước trong vùng Đông Nam Á, Đàng Trong của quốc gia Đại Việt đã trở thành điểm dừng chân của nhiều đoàn di dân Trung Hoa. Nhờ vị trí địa lý tự nhiên giáp biển, cộng với những điều kiện thuận lợi trong và ngoài nước, vào các thế kỷ XVI–XIX, các thương nhân và di dân Trung Hoa đã có mặt tại các tỉnh ven biển miền Trung (đặc biệt là tại địa phận khu vực ngày nay thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên). Khi định cư tại các nước Đông Nam Á, cũng như miền Trung Việt Nam, bên cạnh việc bảo lưu các yếu tố truyền thống nhằm kiến tạo những thành tựu kinh tế, văn hóa tại vùng đất mới, cộng đồng người Hoa đã sớm hoà nhập vào khối cộng đồng dân cư bản địa, chủ động giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển. Bài viết tìm hiểu sự giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển của cộng đồng người Hoa ở ven biển miền Trung trong lịch sử và hiện tại. Từ đó cho thấy sự đóng góp của cộng đồng cư dân này trong lĩnh vực văn hoá, kinh tế, xã hội nhằm góp phần xây dựng đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 1

Trang 1

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 2

Trang 2

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 3

Trang 3

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 4

Trang 4

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 5

Trang 5

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 6

Trang 6

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 7

Trang 7

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 8

Trang 8

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 9

Trang 9

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển trang 10

Trang 10

pdf 10 trang viethung 16740
Bạn đang xem tài liệu "Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển

Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ: 11 
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, TẬP 2, SỐ 4, 2018 
Tóm tắt—Trong bối cảnh người Hoa đến các 
nước trong vùng Đông Nam Á, Đàng Trong của 
quốc gia Đại Việt đã trở thành điểm dừng chân của 
nhiều đoàn di dân Trung Hoa. Nhờ vị trí địa lý tự 
nhiên giáp biển, cộng với những điều kiện thuận lợi 
trong và ngoài nước, vào các thế kỷ XVI–XIX, các 
thương nhân và di dân Trung Hoa đã có mặt tại các 
tỉnh ven biển miền Trung (đặc biệt là tại địa phận 
khu vực ngày nay thuộc các tỉnh Quảng Nam, 
Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên). Khi định cư 
tại các nước Đông Nam Á, cũng như miền Trung 
Việt Nam, bên cạnh việc bảo lưu các yếu tố truyền 
thống nhằm kiến tạo những thành tựu kinh tế, văn 
hóa tại vùng đất mới, cộng đồng người Hoa đã sớm 
hoà nhập vào khối cộng đồng dân cư bản địa, chủ 
động giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển. Bài 
viết tìm hiểu sự giao lưu văn hóa, hội nhập và phát 
triển của cộng đồng người Hoa ở ven biển miền 
Trung trong lịch sử và hiện tại. Từ đó cho thấy sự 
đóng góp của cộng đồng cư dân này trong lĩnh vực 
văn hoá, kinh tế, xã hội nhằm góp phần xây dựng 
đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 
Từ khóa—người Hoa, miền Trung, giao lưu, hội 
nhập, phát triển. 
1 KHÁI LƯỢC VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA 
Ở VEN BIỂN MIỀN TRUNG 
1.1 Lược sử cộng đồng người Hoa đến vùng đất 
miền Trung 
Miền Trung Việt Nam là vùng đất có điều kiện 
địa lý, tự nhiên thuận lợi, có bề dày lịch sử, văn 
hóa lâu đời. Ở vào các thế kỷ XVI – XIX, nhờ có 
các yếu tố trong và ngoài nước, khu vực Trung 
Bộ, nhất là tại bốn các tỉnh Quảng Nam, Quảng 
Ngày nhận bản thảo: 15-12-2017; Ngày chấp nhận đăng: 
06-02-2018; Ngày đăng: 31-12-2018. 
Đào Vĩnh Hợp, Trường Đại học Sài Gòn 
(Email: daovinhhop@gmail.com) 
Võ Thị Ánh Tuyết, Trường Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn, ĐHQG-HCM 
(email: vothianhtuyet@hcmussh.edu.vn) 
Ngãi, Bình Định, Phú Yên đã thành nên các phố 
cảng nổi tiếng như: Hội An (Quảng Nam), Thu 
Xà (Quảng Ngãi), Nước Mặn (Bình Định), Vũng 
Lấm, Mỹ Á (Phú Yên) ... Trong thời kỳ thịnh đạt 
nhất, các phố cảng này giữ vị trí quan trọng đối 
với hoạt động kinh tế trong nước và quốc tế. Bấy 
giờ tại đây, thương thuyền các nước đã vào ra cập 
bến đến buôn bán. 
Nhờ chính sách cai trị nhu viễn của các Chúa 
Nguyễn ở Đàng Trong, cộng với những biến động 
từ đất nước Trung Hoa, thương nhân Hoa tới khu 
vực các tỉnh miền Trung ngày một đông. 
Khi Hội An trở thành một đô thị – thương cảng 
phồn thịnh, trung tâm mậu dịch lớn nhất của Đàng 
Trong và cả nước Đại Việt, là một trong những 
thương cảng sầm uất của vùng biển Đông Nam Á 
trong các thế kỷ XVI – XVIII, thương thuyền 
Trung Hoa đã có mặt. Giai đoạn trước thế kỷ 
XVII, người Hoa chỉ dừng chân mua bán chứ 
không lưu trú, nhưng giai đoạn sau thế kỷ XVII, 
người Hoa dần dần thế chân người Nhật nắm 
quyền buôn bán, xây nhà, lập phố ở Hội An. Cộng 
đồng người Hoa đã lập phố “Phố Khách” 
(“Đường nhân phố” hay “Phố Tàu”) riêng bên 
cạnh “Phố Nhật” của người Nhật. Việc buôn bán 
của các thương nhân người Hoa ở Hội An rất phát 
đạt và thuận lợi, do đó các Chúa Nguyễn phải đặt 
ở đây một cơ quan gọi là “Tàu vụ ty” để kiểm soát 
ngoại thương, thu thuế thương thuyền, cứu giúp 
những thuyền ngoại quốc bị bão trôi giạt đến và 
giao phó cho người Trung Quốc và người Minh 
Hương giữ các chức quan trong Tàu vụ ty này 
([8], tr. 538-539). 
Tại Quảng Ngãi, có thể nói Thu Xà là địa điểm 
quy tụ nhiều người Hoa nhất vào cuối thế kỷ 
XVII. Tác giả Đoàn Ngọc Khôi căn cứ vào nội 
dung tờ thị: “thị tỉ phong chức của chúa Nguyễn 
Phúc Chu cho Trần Công Vinh, giao cho ông này 
nhiều việc, trong đó có việc quản lý trông coi dân 
chánh hộ trong các huyện, tổng, xã, thôn, phường 
thuộc bản phủ cùng thương nhân người Hoa” viết 
năm Chính Hòa thứ 12 (1691) để suy đoán người 
Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung 
trong giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển 
Đào Vĩnh Hợp, Võ Thị Ánh Tuyết 
12 SCIENCE AND TECHNOLOGY DEVELOPMENT JOURNAL- 
 SOCIAL SCIENCES & HUMANITIES, VOL 2, ISSUE 4, 2018 
Minh Hương tụ cư khá đông ở Thu Xà trước năm 
1691 ([7], tr. 32). Tuy nhiên, thương cảng Thu Xà 
hình thành và phát triển muộn hơn: các thế kỷ 
XVIII, XIX và đầu thế kỷ XX ([7], tr. 26, tr. 31). 
Vào giai đoạn thịnh vượng của Thu Xà, người 
Hoa phát triển đông và có thế lực mạnh nên đã 
xây dựng nhiều kiến trúc của cộng đồng 
(hình 1 – 2). 
Hình 1. Hội quán Hải Nam (Quảng Ngãi) 
(Nguồn: Đào Vĩnh Hợp, Võ Thị Ánh Tuyết, 2016) 
Hình 2. Gian thờ Thiên Hậu tại chính điện 
hội quán Triều Châu (Quảng Ngãi) 
(Nguồn: Đào Vĩnh Hợp, Võ Thị Ánh Tuyết, 2016) 
Khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, 
người Hoa đã có mặt đông đúc tại vùng đất thuộc 
Bình Định, Phú Yên ngày nay. Tại đây, người 
Hoa đến lập các Minh Hương phố buôn bán nhộn 
nhịp và tạo lập nhiều công trình kiến trúc có giá 
trị. Thực chất từ thời kỳ phát triển của cảng thị 
Nước Mặn trong thế kỷ XVII, người Hoa đã có 
mặt tại khu vực Bình Định. Tuy nhiên vào đầu thế 
kỷ XIX, khi Quy Nhơn phát triển thành đô thị 
thương nghiệp lớn của cả nước dưới triều 
Nguyễn, đồng thời cũng là trung tâm, thương mại 
lớn của các tỉnh miền Trung, là đô thị cảng bao 
gồm thương cảng và quân cảng quan trọng của đất 
nước, thì dấu ấn của người Hoa ở đây mới đậm 
nét. Sự xuất hiện và hoạt động kinh tế thương mại 
của người Hoa tại bến cảng Quy Nhơn đã góp 
phần làm cho đô thị Quy Nhơn trở thành nơi có 
hoạt động mậu dịch đối ngoại đặt biệt là buôn bán 
với Trung Quốc thật năng động ([2], tr. 153). Bấy 
giờ, tại Quy Nhơn người Hoa đã lập nên rất nhiều 
hội quán, bao gồm: Hải Nam (Quỳnh Phủ) hội 
quán, Triều Châu hội quán, Quảng Đông hội 
quán, Phúc Kiến hội quán và Ngũ bang hội quán. 
Còn riêng đối với vùng biển Phú Yên, các tàu 
buồm người Hoa cũng đã cập bến và định cư ở thị 
xã Tuy Hòa cùng hầu hết các thị trấn, thị tứ và 
những vùng đông dân cư, đặc biệt là tại các địa 
phươn ...  trường hợp chùa Ông (số 
411 Trần Hưng Đạo, TP. Quy Nhơn) và chùa Bà 
(số 152 Trần Hưng Đạo TP. Quy Nhơn) được xây 
dựng bởi người Hoa và người Việt để thờ Thiên 
Hậu Thánh Mẫu. Còn ở Phú Yên, năm 1943, bà 
con người Hoa Phú Yên và các địa phương như: 
Quy Nhơn, Bồng Sơn, Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị, 
Ninh Hoà, Vạn Giã, Sài Gòn – Chợ Lớn quyên 
góp tiền để xây lại chùa Hải Nam và Trường tiểu 
học Minh Nam của người Hoa (nay là trường tiểu 
học Lê Quý Đôn, 04, đường Chu Mạnh Trinh, Tp. 
Tuy Hòa, Phú Yên)
3
 ([1], tr. 14). 
3 GIAO LƯU VĂN HÓA, HỘI NHẬP VÀ PHÁT 
TRIỂN CỦA NGƯỜI HOA VEN BIỂN MIỀN 
TRUNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
Theo số liệu công bố chính thức từ cuộc điều 
tra dân số cuối năm 2009, người Hoa của khu vực 
duyên hải Nam Trung Bộ là 19.057 người, chiếm 
2,315% tổng số người Hoa của cả nước. Tại các 
tỉnh, số lượng người Hoa cụ thể như sau: Quảng 
Nam: 943 người, chiếm 0,115% tổng số người 
Hoa của cả nước, Quảng Ngãi: 173 người, chiếm 
0,021% tổng số người Hoa của cả nước, Bình 
Định: 651 người, chiếm 0,079% tổng số người 
Hoa của cả nước, Phú Yên: 482 người, chiếm 
0,059% tổng số người Hoa của cả nước ([12], 
tr. 188 – 192). Tại vùng đất mới miền Trung, các 
thế hệ người Hoa đã ra sức lao động và góp phần 
tạo lập nên các di sản kinh tế, văn hóa, xã hội. 
3 Trên bức tường ở trường Minh Nam còn lưu lại một 
bia đá khắc tên 419 hộ ở Phú Yên và các địa phương bạn 
quyên góp 64.983 đồng để xây dựng lại chùa và trường. 
18 SCIENCE AND TECHNOLOGY DEVELOPMENT JOURNAL- 
 SOCIAL SCIENCES & HUMANITIES, VOL 2, ISSUE 4, 2018 
Là kết quả của mối quan hệ, giao lưu văn hóa 
Việt – Hoa, Hoa – Việt trong nhiều thế kỷ, một 
số người Hoa ở miền Trung đã có hôn nhân hỗn 
hợp với người Việt. Mặc dù đồng bào Hoa rất yêu 
mến chữ Hoa và tiếng nói địa phương của mình, 
tuy nhiên do số lượng cư dân ít và hoạt động cộng 
cư rải rác nên ngày nay, phần lớn người Hoa miền 
Trung ít sử dụng thường xuyên ngôn ngữ mẹ đẻ 
của mình. Tiếng Quảng Đông và các ngôn ngữ 
khác như tiếng Phúc Kiến, tiếng Triều Châu... 
không được thông dụng trong đồng bào Hoa ở 
miền Trung, thậm chí các thế hệ con cháu người 
Hoa sau này có nhiều người không biết đến chữ 
Hoa và các ngôn ngữ mẹ đẻ. Rất nhiều người Hoa 
và hậu duệ của họ đã sử dụng phổ biến ngôn ngữ 
và chữ viết tiếng Việt, nhiều trường hợp sử dụng 
song song hai ngôn ngữ Việt và Hoa. Đa số các 
hội quán, trong tổ chức hội quán, thành phần hội 
viên đã có sự tham gia của người Việt gốc Hoa, 
thậm chí có cả người Việt bên cạnh thành phần 
chủ đạo là người Hoa 
Văn hóa cộng đồng người Hoa ở các tỉnh miền 
Trung chính là sự kế thừa và phát huy truyền 
thống văn hóa Trung Hoa trên vùng đất Trung Bộ 
trong quan hệ giao lưu văn hóa Việt và các dân 
tộc anh em. Ngày nay, phong tục, tập quán trong 
các gia đình, dòng họ người Hoa không còn thuần 
yếu tố Hoa, các lễ tết, lễ hội cổ truyền của người 
Hoa hay vốn có nguồn gốc Trung Hoa đã được 
người Việt và các dân tộc khác hưởng ứng và trở 
thành tài sản chung của cộng đồng cư dân, thu hút 
rất đông người Việt và các du khách nước ngoài 
tham gia. Tại các cơ sơ tín ngưỡng, tôn giáo Hoa, 
không chỉ người Hoa mà người Việt cũng đến 
tham quan, cúng lễ, cầu tài, cầu lộc, cầu con, cầu 
phước cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc, làm ăn 
may mắn... Tại đây đã diễn ra rất nhiều hoạt động 
tín ngưỡng, văn hóa, lễ hội... thu hút rất đông 
người Hoa, Việt ở trong các tỉnh và khu vực lân 
cận về tham dự. Các lễ hội của cộng đồng người 
Hoa đã trở thành lễ hội chung của các tỉnh và cả 
khu vực duyên hải Nam Trung Bộ. Thông qua ua 
đó thể hiện sự hòa hợp giữa niềm tin tâm linh vào 
cuộc sống hàng ngày, thỏa mãn nhu cầu tín 
ngưỡng không chỉ có ý nghĩa đối với người Hoa 
mà còn cả với người Việt. Đồng thời, các hoạt 
động lễ hội còn góp phần tạo nên những nguồn 
quỹ tương trợ xã hội, tăng cường tình đoàn kết 
gắn bó cộng đồng và trở thành nét văn hóa chung 
của dân tộc Việt Nam. Đây chính là điểm tựa tinh 
thần cho cộng đồng người Hoa miền Trung chung 
vai góp sức vào sự phát triển phồn thịnh của vùng 
đất. 
Hiện nay, các kiến trúc cổ cùng hoạt động tín 
ngưỡng, lễ hội của người Hoa miền Trung vẫn 
được bảo tồn, duy trì khá tốt. Đây chính là những 
nguồn tài nguyên nhân văn quý giá, mang đến cho 
các tỉnh miền Trung cơ hội phát triển kinh tế, văn 
hóa, du lịch bền vững. Sản phẩm du lịch mới độc 
đáo: du lịch văn hóa, du lịch di sản, du lịch lễ 
hội... qua các di sản của người Hoa đã và đang thu 
hút du khách, đem lại doanh thu cao cho ngành du 
lịch, tạo đà phát triển kinh tế của khu vực, đặc biệt 
là góp phần tạo cơ hội hội nhập quốc tế cho các 
tỉnh nói riêng và khu vực miền Trung, Việt Nam 
nói chung. 
Vùng đất miền Trung vốn đã trải qua nhiều 
biến cố, thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, do vậy 
lịch sử cộng đồng người Hoa sinh sống tại đây 
cũng có nhiều biến thiên. Lịch sử ghi nhận người 
Hoa đến miền Trung nhiều nhất là trong các thế 
kỷ XVIII, XIX. Vốn mang đặc trưng của nền văn 
hoá phương Đông, khi đến các nước Đông Nam 
Á, cộng đồng người Hoa đã sớm hoà nhập vào 
khối cộng đồng dân cư bản địa, cùng đồng cam 
cộng khổ phấn đấu làm giàu cho bản thân, cho 
cộng đồng và cho đất nước, đồng thời chủ động 
giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển. Trong 
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, rất 
nhiều người Hoa đã sát cánh cùng quân dân Việt 
Nam đứng lên bảo vệ chủ quyền dân tộc, thống 
nhất đất nước. Sau ngày giải phóng miền Nam 
(1975), hoạt động kinh tế – văn hoá của cộng 
đồng người Hoa ngày càng sôi nổi, nhộn nhịp, 
phát triển theo chiều hướng đi lên. 
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở 
nước ta hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và 
Nhà nước, người Hoa, đặc biệt là giới công 
thương đã khá nhạy cảm với đường lối chính sách 
kinh tế, vươn lên làm giàu. Những năm qua, họ đã 
đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng kinh tế 
của các tỉnh, khu vực. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi 
mới và hội nhập, người Hoa có những đóng góp 
nhất định đối với kinh tế văn hóa, xã hội của nước 
ta nói chung, trong đó có các tỉnh miền Trung nói 
riêng. Hiện nay, hoạt động kinh tế, văn hoá của 
người Hoa rất sôi nổi, nhộn nhịp. Họ vẫn tiếp tục 
phát triển nhiều ngành nghề khác nhau như trên 
lĩnh vực kinh tế, thủ công nghiệp, trồng trọt, 
thương mại, dịch vụ, ngân hàng, phạm vi hoạt 
động mở rộng ra nhiều tỉnh thành và mang cả tính 
quốc tế. Hoạt động kinh tế của người Hoa miền 
Trung nói chung khá phát triển, góp phần thúc 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ: 19 
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, TẬP 2, SỐ 4, 2018 
đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm, phục vụ đời 
sống của cộng đồng, tăng cường mối quan hệ 
đoàn kết Việt – Hoa, góp phần cho sự phát triển 
kinh tế, văn hóa, xã hội chung của các tỉnh miền 
Trung. 
Người Hoa ở ven biển miền Trung Việt Nam 
phần lớn có nguồn gốc đến từ các tỉnh miền biển 
phía Nam và Đông Nam Trung Quốc, đông nhất 
là từ các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông và Hải 
Nam. Trong quá trình định cư, chung sống tại 
miền Trung, người Hoa có mối quan hệ chặt chẽ 
với các dân tộc ở nước ta, nhất là các dân tộc ở 
vùng Nam Trung Bộ... Vốn có truyền thống hoạt 
động kinh tế thương mại, gắn kết sản xuất với 
kinh doanh, nên các nhà sản xuất người Hoa luôn 
chú ý tìm kiếm và mở rộng thị trường trong nước 
cũng như nước ngoài, tận dụng mọi điều kiện 
quan hệ thị trường quốc tế. Ngày nay, người Hoa 
miền Trung còn có mối quan hệ chặt chẽ với 
người Hoa ở nước ngoài, đặc biệt các nước trong 
khu vực Đông Nam Á và các nước trong khu vực 
Châu Á – Thái Bình Dương. Thậm chí, thông qua 
các hoạt động kinh tế và sự di cư đến các nước 
theo quan hệ huyết thống, ngày nay người Hoa 
miền Trung còn có các mối quan hệ thân thiện với 
bà con người Hoa khắp năm châu như: Mỹ, Úc, 
Canađa và các nước Tây Âu. Điển hình như 
trường hợp nhiều người Hoa ở Hội An hiện đang 
sinh sống và định cư tại Mỹ, Canađa hoặc có thân 
nhân ở các nước này. Trong các dịp Lễ, Tết, nhiều 
kiều bào người Hoa đã đóng góp cho các hoạt 
đọng của hội quán hay trở về nước và họp mặt tại 
hội quán chúng của các bang – hội quán Trung 
Hoa. 
Như vậy, vốn là một bộ phận hết sức quan 
trọng trong 54 dân tộc anh em ở nước ta, qua các 
giai đoạn lịch sử định cư và phát triển tại các tỉnh 
miền Trung Việt Nam, người Hoa đã góp phần 
chung tay xây dựng đất nước, hợp tác hội nhập và 
phát triển. 
4 KẾT LUẬN 
 Trong suốt quá trình di cư, làm ăn buôn bán, 
định cư tại các tỉnh ven biển miền Trung, người 
Hoa đã trải qua bao biến cố lịch sử, lúc thăng, lúc 
trầm nhưng họ đã có nhiều đóng góp quan trọng 
trong công cuộc khai phá, xây dựng các tỉnh, 
thành phố nói riêng và diễn trình lịch sử văn hóa 
vùng đất nói chung. Quá trình hội nhập, giao lưu 
văn hoá của cộng đồng người Hoa vốn một xu thế 
tất yếu, đã diễn ra rất tự nhiên và hoà bình nên các 
yếu tố đặc sắc vốn có của văn hóa Trung Hoa vẫn 
được lưu giữ và mang nét độc đáo riêng. Qua đó 
đã chứng minh cụ thể quá trình người Hoa tụ cư ở 
ven biển miền Trung và vai trò quan trọng của họ 
đối với sự ra đời và thịnh đạt của các đô thị 
thương cảng trong lịch sử Việt Nam thời trung – 
cận đại. Đặc biệt hơn, các bằng chứng về sự giao 
lưu văn hóa Việt – Hoa còn thể hiện quá trình 
giao lưu, hội nhập kinh tế, văn hoá diễn ra sôi 
động ở miền Trung xưa và nay, tạo nên sự đa 
dạng cho văn hóa miền Trung và văn hóa Việt 
Nam. Giao lưu văn hóa, hội nhập và phát triển đã 
giúp các di dân Trung Hoa giữ gìn bản sắc dân 
tộc, kiến tạo những thành tựu văn hóa tốt đẹp trên 
vùng đất mới. đồng thời còn cho thấy những 
người Hoa tha hương đã dần hội nhập vào đại gia 
đình các dân tộc Việt Nam, góp phần xây dựng 
đất nước trong thời kỳ hội nhập và phát triển. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ban công tác người Hoa thị xã Tuy Hòa – Phân hội nghiên 
cứu văn hóa dân tộc Hoa tỉnh Phú Yên, 2003, Người Hoa 
Phú Yên, UBMTTQVN tỉnh Phú Yên. 
[2] Đỗ Bang, Nguyễn Tấn Hiểu, 2002, Lịch sử thành phố Quy 
Nhơn, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 
[3] Ngô Đức Thịnh, 2012, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng 
ở Việt Nam, Nxb. Trẻ. 
[4] Ngô Hữu Thảo, 2006, Tín ngưỡng thánh nhân và tín 
ngưỡng thần linh trong cộng đồng người Hoa ở Việt Nam 
(Qua nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh), Đề tài cấp 
bộ, Viện nghiên cứu tôn giáo. 
[5] Nguyễn Đình Tư, 2004, Non nước Phú Yên, Nxb. Thanh 
Niên. 
[6] Nguyễn Văn Đăng, 2011, “Vài nhận xét về tổ chức cộng 
đồng người hoa ở Nam Trung Bộ (các tỉnh Quảng Ngãi, 
Bình Định, Phú Yên)”, Tạp chí Khoa học trường Đại học 
Huế, Số 66. 
[7] Nguyễn Văn Đăng, Trần Thị Thu Hương, 2011, “Bước đầu 
tìm hiểu về phố cảng Thu Xà ở Quảng Ngãi (từ thế kỷ 
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX)”, Tạp chí nghiên cứu Lịch 
sử, số 10, tr. 32. 
[8] Phan Khoang, 1969, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, 
Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn. 
[9] Trần Lâm Biền, 1998, “Giao lưu mỹ thuật Hoa – Việt”, 
Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – 
Hoa trong lịch sử. Nxb. Thế Giới, Hà Nội, tr.152. 
[10] Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An, 2008, Lễ lệ lễ 
hội Hội An, Hội An. 
[11] Võ Văn Hoàng, 2006, “Tìm hiểu chi tiết “mắt cửa” trong 
trang trí kiến trúc ở khu phố cổ Hội An”, Giá trị và tính 
đa dạng của Folklore Châu Á trong quá trình hội nhập, 
Nxb. Thế giới, Hà Nội. 
[12] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, 
(2010), trang 188 – 192. 
20 SCIENCE AND TECHNOLOGY DEVELOPMENT JOURNAL- 
 SOCIAL SCIENCES & HUMANITIES, VOL 2, ISSUE 4, 2018 
Võ Thị Ánh Tuyết, Thạc sĩ Khảo cổ học (ĐH 
Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM) 
năm 2011. Cử nhân Khảo cổ học (ĐH Khoa học 
Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM) năm 
2007. Nghiên cứu sinh Khảo cổ học (ĐH Khoa 
học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM) khóa 
2016-2019. Tham gia giảng dạy tại Trường ĐH 
Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM từ 
năm 2007. Lĩnh vực nghiên cứu: “Khảo cổ học 
Lịch sử, kiến trúc cổ của người Hoa”. 
Đào Vĩnh Hợp, Thạc sĩ Khảo cổ học (ĐH 
Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM) 
năm 2011. Cử nhân Khảo cổ học (ĐH Khoa học 
Xã hội và Nhân văn - ĐHQG-HCM) năm 
2007. Cử nhân Anh văn (ĐH Khoa học Xã hội và 
Nhân văn - ĐHQG-HCM) năm 2013. Nghiên cứu 
sinh Lịch sử Việt Nam (ĐH Khoa học Xã hội và 
Nhân văn - ĐHQG-HCM) khóa 2012. Tham gia 
giảng dạy tại Trường ĐH Sài Gòn từ năm 
2014. Lĩnh vực nghiên cứu: “Lịch sử Việt Nam cổ 
trung đại, Lịch sử người Hoa ở Việt Nam và Đông 
Nam Á”. 
Cultural exchanges, intergration and 
developmet of the chinese community 
in central coastal provinces 
Dao Vinh Hop1, Vo Thi Anh Tuyet2,* 
1Sai Gon University 
2University of Social Sciences and Humanities, VNUHCM 
*Corresponding author: vothianhtuyet@hcmussh.edu.vn 
Received: Dec 15th 2017; Accepted: Feb 6th 2018; Published: Dec 31st 2018. 
Abstract—In the circumstance of the Chinesse 
emigrants going abroad to seek shelter and find new 
lands, especially southeast Asia, Dang Trong of Dai 
Viet kingdom has gradually become a point of 
arrival which attracts them strongly. Depending on 
geographic position of contigous sea and advantage 
of Dang Trong context at home and abroad, Chinese 
merchants and emigrants have come to the central 
coastal parts (especially in Quang Nam, Quang 
Ngai, Binh Dinh, and Phu Yen). Having settled in 
southeast Asia region as well as in the central part of 
Vietnam, Chinese emigrants have preseved their 
traditional culture to gain achievements in this land 
region. Besides, they have actively integrated into 
native communities, exchanging culture for 
prosperity and development. This paper indicates 
cultural exchanges, integration and development of 
the Hoa in the central coastal provinces in history 
and present, which asserts their contributions in the 
fields of culture, economy and society to build 
Vietnam nation, notably in the age of present 
international integration. 
Index Terms—the Hoa, the central coastal provinces, exchanges, integration, development. 

File đính kèm:

  • pdfcong_dong_nguoi_hoa_ven_bien_mien_trung_trong_giao_luu_van_h.pdf