Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh

Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), từ đó đề xuất các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên.

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 8

Trang 8

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 9

Trang 9

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang Danh Thịnh 11/01/2024 1240
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
55
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP 
KINH DOANH CỦA SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ 
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
FACTORS AFFECT THE START-UP INTENTION OF UNIVERSITY 
STUDENTS IN ECONOMICS AREA AT HO CHI MINH CITY
Nguyễn Xuân Hiệp, Trần Hà Thanh, Nguyễn Thị Yến Nhi1
Ngày nhận bài: 11/11/2018 Ngày chấp nhận đăng: 22/11/2018 Ngày đăng: 05/6/2019
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), từ đó đề xuất 
các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên. Mô hình 
nghiên cứu đề xuất kế thừa mô hình nghiên cứu của Ambad và Damit (2016). Dữ liệu nghiên cứu 
được thu thập từ 430 sinh viên năm cuối, khối ngành kinh tế của 10 trường Đại học tại TP.HCM có 
tỷ lệ sinh viên khởi nghiệp cao sau khi tốt nghiệp và được kiểm định bằng phân tích hồi quy tuyến 
tính bội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của 
sinh viên khối ngành kinh tế các trường Đại học tại TP.HCM (được sắp xếp theo trình tự mức độ 
quan trọng từ cao xuống thấp) bao gồm: Giáo dục kinh doanh (GDKD); Chuẩn chủ quan (CCQA); 
Môi trường khởi nghiệp (MTKN); Đặc điểm tính cách (DDTC) và Nhận thức tính khả thi (NTKT).
Từ khóa: Ý định khởi nghiệp kinh doanh, sinh viên khối ngành kinh tế, môi trường khởi nghiệp.
Abstract
This study aims to identify the factors these affect the start-up intention of university student in 
economics area at Ho Chi Minh City. From there, policy implications are introduced in order 
to promote the entrepreneurial spirit of the students. The proposed model inherits the research 
model of Ambad and Damit (2016). The research data was collected from 430 economic final-year 
students from 10 universities where have the highest rate of start-up students in Ho Chi Minh area 
and and it is tested by Multiple Linear Regression Analysis Model. The results show that the factors 
affecting the intention of startups of university student in economics area at Ho Chi Minh City 
(arranged in order of importance from highest to lowest) include: Business education (GDKD); 
Subjective standards (CCQA); Startup Environment (MTKN); Personality Characteristics (DDTC) 
and Perception of Feasibility (NTKT),
Keywords: Start-up intention, students in economics, startup environment.
__________________________________________
1 Trường Đại học Tài chính – Marketing
56
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện dựa vào:
- Thuyết hành động hợp lý (TRA) của Ajzen 
và Fishbein (1975); Lý thuyết về hành vi dự 
định (TPB) – Ajzen (1991); Mô hình sự kiện 
khởi nghiệp của Shapero và Sokol (1982); Mô 
hình cấu trúc ý định kinh doanh của Luthje và 
Franke (2003).
- Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng 
đến ý định khởi nghiệp, bao gồm: nghiên cứu 
của Autio và cộng sự (2001) về mô hình ý định 
kinh doanh giữa sinh viên châu Âu và Bắc Mỹ; 
nghiên cứu của Lĩnán và cộng sự (2011) về 
các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp 
của sinh viên Tây Ban Nha; nghiên cứu của 
Karali (2013) về mô hình tác động của giáo 
dục kinh doanh đến ý định kinh doanh; nghiên 
cứu của Ambad và Dami (2016) về các yếu tố 
ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh 
viên tại Malaysia; nghiên cứu của Phan Anh Tú 
và Giang Thị Cẩm Tiên (2015) về ý định khởi 
nghiệp của sinh viên Đại học Cần Thơ; nghiên 
cứu của Đỗ Thị Hoa Liên (2016) về các nhân tố 
ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh 
của sinh viên ngành quản trị kinh doanh trường 
Đại học Lao động – Xã hội.
Tổng kết các lý thuyết về ý định hành vi 
và các nghiên cứu trên đây cho thấy, mô hình 
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định 
khởi nghiệp kinh doanh đều dựa vào thuyết 
hành vi hoạch định (TPB) của Ajzen (1991). 
Vì thế, phần lớn các nghiên cứu đều xác định 
các yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi 
nghiệp kinh doanh của sinh viên bao gồm: (1) 
Thái độ đối với hành vi khởi nghiệp; (2) Chuẩn 
chủ quan; (3) Nhận thức tính khả thi. Trong đó, 
1. Đặt vấn đề
Ngày nay, kinh doanh trở thành nhân tố quyết 
định sự phát triển đối với tất cả các quốc gia. Vì 
thế, một trong những chiến lược tốt nhất để phát 
triển kinh tế của đất nước và duy trì khả năng 
cạnh tranh trước xu hướng toàn cầu hóa ngày 
càng gia tăng là phát triển tinh thần kinh doanh 
(Schaper và Volery, 2004; Venkatachalam và 
Waqif, 2005). Trong đó, nhiều kết quả nghiên 
cứu (ví dụ: Tam, 2009; Ooi và cộng sự, 2011) 
đã chứng minh giáo dục kinh doanh có tầm 
quan trọng trong việc khơi gợi cảm hứng cho 
sinh viên hướng đến kinh doanh và các tổ chức 
giáo dục bậc cao là các cơ sở phát triển và khai 
thác đội ngũ doanh nhân tiềm năng.
Tại Việt Nam, tinh thần doanh nhân và khởi 
nghiệp được nhân lên trong những năm gần đây, 
sau khi Chính phủ phát động phong trào khởi 
nghiệp và lấy năm 2016 là năm quốc gia khởi 
nghiệp. Nhiều trường đại học đã đưa giáo dục 
khởi nghiệp vào chương trình đào tạo, thậm chí 
xây dựng thành một ngành, chuyên ngành đào 
tạo. Tuy nhiên, tại TP.HCM - Trung tâm kinh tế 
- thương mại và khoa học – công nghệ lớn nhất 
của cả nước, với hơn 80 trường đại học, cao 
đẳng và khoảng gần một triệu sinh viên, nhưng 
số lượng và tỷ lệ sinh viên sau tốt nghiệp khởi 
nghiệp còn rất thấp, ngay cả đối tượng sinh viên 
khối ngành kinh tế. Đây chính là lý do để tác 
giả thực hiện nghiên cứu này, nhằm xác định 
các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp 
kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế 
các trường Đại học tại TP.HCM, từ đó đề xuất 
các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy tinh thần 
khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên trong giai 
đoạn hiện nay. 
57
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
tác nhân quan trọng góp phần hình thành và 
thúc đẩy  ... ành một 
doanh nhân thành đạt) của thang đo Nhận thức 
tính khả thi có tương quan biến tổng (= 0,282) 
không đạt yêu cầu ( > 0,3), thang đo các khái 
niệm nghiên cứu đều đạt độ tin cậy (> 0,6).
Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) 
các biến độc lập và biến phụ thuộc bằng phương 
pháp trích Principal components và phép quay 
Varimax cho thấy:
- Sau khi loại biến CCQA4 (Nhà nước có 
các chính sách khuyến khích sinh viên khởi 
nghiệp) của thang đo yếu tố Chuẩn chủ quan 
(có hệ số tải nhân tố = 0,440 < 0,5 và chênh 
lệch hệ số nhân tố < 0,3 (0,440 - 0,362), 22 biến 
quan sát (còn lại) đo lường 5 yếu tố ảnh hưởng 
đến ý định khởi nghiệp được rút trích vào 05 
nhân tố nguyên gốc với hệ số KMO = 0,919 và 
Sig. = 0,000; phương sai trích = 63,146%, tại 
Eigenvalue = 1,112, đồng thời tất cả các biến 
đều có hệ số tải nhân tố đạt yêu cầu (> 0,5). 
- 4 biến quan sát của thang đo biến phụ 
thuộc (ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
viên) được rút trích vào cùng một nhân tố với 
hệ số KMO = 0,822 và Sig = 0,000; phương sai 
trích = 74,896%, tại Eigenvalue = 2,996, đồng 
thời tất cả biến đều có hệ số tải nhân tố đạt yêu 
cầu (> 0,5). Chứng tỏ, EFA các biến độc lập và 
biến phụ thuộc là phù hợp và có thể sử dụng kết 
quả này cho phân tích hồi qui ở bước tiếp theo.
Kết quả phân tích hồi qui thu được R2 điều 
chỉnh = 0,606; giá trị kiểm định F = 90,733 
với Sig = 0,000; các hệ số hồi quy B và Beta 
đều > 0, các giá trị kiểm định t đều có ý nghĩa 
61
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
YDKN = -1,173 + 0,205*DDTC 
 + 0,254*CCQA + 0,170*NTKT 
 + 0,336*GDKD + 0,276*MTKN
- Mức độ quan trọng của các yếu tố ảnh 
hưởng được sắp xếp theo thứ tự từ cao xuống 
thấp bao gồm: Giáo dục kinh doanh (GDKD); 
Chuẩn chủ quan (CCCQ); Môi trường khởi 
nghiệp (MTKN); Đặc điểm tính cách (DDTC) 
và Nhận thức tính khả thi (NTKT).
thống kê (bảng 3); kết quả kiểm tra các vi phạm 
giả định của mô hình hồi qui đều không bị vi 
phạm. Chứng tỏ:
- Mô hình hồi quy được dự đoán phù hợp 
với dữ liệu thị trường và giải thích được 60,6% 
sự biến thiên của ý định khởi nghiệp kinh doanh 
của sinh viên.
- Các giả thuyết H1, H2, H3, H4, H5 được 
chấp nhận và phương trình hồi quy có dạng:
Bảng 2. Các thông số của mô hình hồi qui
Mô
hình
Hệ số hồi qui
chưa chuẩn hóa
Hệ số hồi 
qui chuẩn 
hóa
Giá trị
kiểm
định t
Mức
ý
nghĩa
Thống kê đa cộng tuyến
B
Độ lệch chuẩn 
của sai số
Beta
Độ chấp 
nhận
Hệ số phóng đại 
phương sai (VIF)
(Constant) -1.173 0,257 -4,566 0,000
DDTC 0,205 0,050 0,163 4,058 0,000 0,568 1.,761
CCQA 0,254 0,043 0,225 5,940 0,000 0,638 1,566
NTKT 0,170 0,042 0,158 4,058 0,000 0,602 1,661
GDKD 0,336 0,046 0,284 7,289 0,000 0,603 1,659
MTKN 0,276 0,056 0,202 4,967 0,000 0,555 1,803
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả)
Kết quả kiểm định chưa tìm thấy sự khác 
biệt về ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại 
TP.HCM theo các đặc điểm: loại hình trường đại 
học; giới tính; hộ khẩu thường trú; nghề nghiệp 
của bố mẹ sinh viên. Nghĩa là, giả thuyết H6 
(có sự khác biệt về ý định khởi nghiệp của sinh 
viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại 
TP.HCM theo các đặc điểm nhân khẩu học của 
sinh viên bị bác bỏ.
Như vậy, kết quả nghiên cứu này tương đồng 
với nghiên cứu của Lĩnán và cộng sự (2011), 
nhưng bổ sung yếu tố môi trường khởi nghiệp; 
tương đồng với nghiên cứu Ambad và Damit 
(2016), trong đó yếu tố cơ chế, chính sách của 
Chính phủ được thay thế bằng môi trường khởi 
nghiệp. Yếu tố Giáo dục kinh doanh (GDKD); 
Chuẩn chủ quan (CCQA) có ảnh hưởng mạnh 
đến ý định khởi nghiệp của sinh viên là tương 
đồng với nghiên cứu của Lĩnán và cộng sự 
(2011), Ambad và Damit (2016); Phan Anh Tú 
và Giang Thị Cẩm Tiên (2015); Đỗ Thị Hoa 
Liên (2016). Yếu tố môi trường khởi nghiệp có 
ảnh hưởng mạnh đến ý định khởi nghiệp kinh 
doanh của sinh viên khối ngành kinh tế là tương 
đồng với nghiên cứu của Grimaldi và Gradi 
(2005); Radas và Bozic (2009). Nghiên cứu này 
chưa tìm thấy sự khác biệt về ý định khởi nghiệp 
của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại 
học tại TP.HCM theo các đặc điểm nhân khẩu 
62
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Đặc điểm tính cách (DDTC) và Nhận thức tính 
khả thi (NTKT). Tuy nhiên, mô hình nghiên 
cứu chỉ giải thích được 60,6% biến thiên của 
ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên. 
Chứng tỏ, khả năng còn có những yếu tố khác 
cũng tham gia giải thích ý định khởi nghiệp 
kinh doanh của sinh viên nhưng chưa được cô 
đọng trong mô hình nghiên cứu.
Từ kết quả này, để thúc đẩy tinh thần khởi 
nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành 
kinh tế các trường đại học tại TP.HCM trong 
giai đoạn hiện nay, các nhà hoạch định chính 
sách và các trường đại học cần tập trung vào các 
hàm ý chính sách và quản trị sau đây.
Một là, nâng cao vai trò và chất lượng 
giáo dục kinh doanh trong các trường đại học 
bằng cách:
- Đưa các khóa học doanh nhân vào chương 
trình bắt buộc của trường đại học đào tạo khối 
ngành kinh tế, đồng thời gia tăng thời lượng và 
nâng cao chất lượng chương trình giáo dục kinh 
doanh trong các trường đại học.
- Xác lập danh mục, mã ngành, chuyên 
ngành quản trị khởi nghiệp trong các trường đại 
học khối ngành kinh tế. Trong đó, chương trình 
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại chưa có sự 
tương thích giữa mức độ quan trọng của các yếu 
tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh 
của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại 
học tại TP.HCM và giá trị trung bình của chúng. 
Đó là các yếu tố có ảnh hưởng mạnh đến ý định 
khởi nghiệp kinh doanh lại chưa được sinh viên 
đánh giá cao và ngược lại (bảng 4). Chứng tỏ 
các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp 
kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế 
các trường đại học tại TP.HCM chưa được phát 
triển dựa trên cơ sở khoa học của chúng. 
5. Kết luận và hàm ý chính sách, quản trị
Mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng 
đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
viên khối ngành kinh tế các trường đại học 
tại TP.HCM được đề xuất kế thừa từ mô hình 
nghiên cứu của Lĩnán và cộng sự (2011), 
Ambad và Damit (2016). Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, mô hình kiểm định phù hợp với mô 
hình nghiên cứu đề xuất, trong đó mức độ quan 
trọng của các yếu tố ảnh hưởng được sắp xếp 
theo thứ tự từ cao xuống thấp bao gồm: Giáo 
dục kinh doanh (GDKD); Chuẩn chủ quan 
(CCCQ); Môi trường khởi nghiệp (MTKN); 
Bảng 4. So sánh mức độ ảnh hưởng và giá trị trung bình của các yếu tố 
ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên
Nhân tố
Mức độ quan 
trọng (Beta)
Giá trị 
trung bình
Giá trị có nhiều lựa 
chọn nhất (Mod)
Độ lệch 
chuẩn
Giáo dục kinh doanh 0,284 4,632 5 0,83199
Chuẩn chủ quan 0,225 4,748 5 0,87074
Môi trường khởi nghiệp 0,202 5,423 6 0,71984
Đặc điểm tính cách 0,163 5,535 6 0,78399
Nhận thức tính khả thi 0,158 5,249 5 0,91558
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả)
xã hội học là tương đồng với Ambad và Damit 
(2016); Đỗ Thị Hoa Liên (2016). Tất cả những 
sự so sánh này, chứng tỏ kết quả nghiên cứu này 
đáng tin cậy.
63
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
khích và hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp như cấp 
tín dụng lãi suất ưu đãi; chính sách miễn, giảm 
thuế thu nhập doanh nghiệp cho sinh viên khởi 
nghiệp trong những năm đầu; xây dựng các 
chương trình dự án kinh doanh cho sinh viên 
khởi nghiệp, v.v.
- Trung tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp 
(BSSC) của Thành Đoàn TP.HCM cần phát huy 
hiệu quả của diễn đàn: “Không gian sinh viên 
khởi nghiệp” để hướng đến hình thành cộng 
đồng sinh viên khởi nghiệp cùng nhau hợp tác, 
chia sẻ, hỗ trợ và phát triển.
- Các trường đại học phải đóng vai trò quyết 
định trong việc tuyên truyền, giáo dục, trang bị 
kiến thức, kỹ năng và trải nghiệm để sinh viên 
sẵn sàng khởi nghiệp. 
Bốn là, phát huy nỗ lực và bản lĩnh khởi 
nghiệp của sinh viên, các trường đại học kết hợp 
với cơ quan truyền thông tăng cường công tác 
giáo dục, tuyền truyền sinh viên nhận thức vai 
trò của tinh thần khởi nghiệp; những điều kiện 
để biến ý tưởng khởi nghiệp thành hiện thực, 
những rủi ro có thể phải đối mặt, để sinh viên 
có một thái độ đúng đắn đối với vấn đề khởi 
nghiệp, nuôi dưỡng niềm đam mê khởi nghiệp 
và xây dựng bản lĩnh tinh thần doanh nhân.
Năm là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả 
hoạt động tư vấn khởi nghiệp. Trong đó, Trung 
tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp (BSSC) của 
Thành Đoàn TP.HCM cần khẩn trương cho 
ra mắt Website cơ sở dữ liệu khởi nghiệp để 
sinh viên có điều kiện tiếp cận và tham vấn các 
mô hình khởi nghiệp; các yêu cầu, điều kiện 
khởi nghiệp, những rủi ro trong quá trình khởi 
nghiệp, từ đó nâng cao nhận thức kiểm soát 
hành vi khởi nghiệp của sinh viên.
đào tạo quản trị khởi nghiệp cần phải trực tiếp 
trang bị các tố chất kinh doanh và thúc đẩy tinh 
thần khởi nghiệp.
- Các trường đại học cần có các chính sách 
khuyến khích, động viên tinh thần doanh nhân 
và khởi nghiệp của sinh viên, đặc biệt là sinh 
viên nữ thông qua việc tạo lập sân chơi phát 
triển ý tưởng kinh doanh và khởi nghiệp cho 
sinh viên.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền tinh 
thần doanh nhân và ý định khởi nghiệp cho sinh 
viên bằng các hình thức:
- Dành riêng một chuyên mục khởi nghiệp 
kinh doanh và tinh thần doanh nhân trên các 
phương tiện truyền thông đại chúng. 
- Phát huy vai trò của các diễn đàn khởi 
nghiệp để lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đến mọi 
công sở, trường học, mọi gia đình và cộng đồng 
xã hội. 
- Phát hành các ấn phẩm về sinh viên khởi 
nghiệp; doanh nhân trẻ thành đạt; cẩm nang 
khởi nghiệp để truyền cảm hứng, định hướng 
và dẫn dắt tinh thần khởi nghiệp của sinh viên. 
Ba là, hoàn thiện môi trường khởi nghiệp 
bằng cách:
- Chính phủ và TP.HCM cần tiếp tục kiến 
tạo môi trường khởi nghiệp cho sinh viên; khẩn 
trương bổ sung các ngành nghề mới, chưa có 
trong hệ thống ngành nghề được Chính phủ 
quy định, đồng thời xây dựng hệ sinh thái khởi 
nghiệp của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể và 
định hướng khởi nghiệp theo lĩnh vực đó. 
- Phát triển và phát huy vai trò của các 
quỹ đầu tư khởi nghiệp và các vườn ươm khởi 
nghiệp, đồng thời có các chính sách khuyến 
64
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Tài liệu tham khảo 
Tiếng Việt
Đỗ Thị Hoa Liên. (2016). Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên 
Quản trị kinh doanh Trường đại học lao động xã hội (cơ sở TP.HCM). Tạp chí Khoa học Yersin, 
số 1(11/2016), tr. 44-52.
Phan Anh Tú và Giang Thị Cẩm Tiên. (2015). Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự 
doanh nghiệp: Trường hợp sinh viên Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh Trường Đại học Cần 
Thơ. Tạp chí Khoa học Trường ĐH Cần Thơ, số 38 (2015), tr. 59- 66.
Tiếng Anh
Ambad, S. N. A and Ag Damit, D. H. D. (2016). Determinants of Entrepreneurial Intention Among 
Undergraduate Students in Malaysia. Procedia Economics and Finance, 37, 108 – 114.
Ajzen I., Fishbein, M. (1975). Belief, Attitude, Intention and Behavior: An Introduction to theory 
and research. Addition-Wesley, Reading, MA.
Ajzen, I. (1991). The Theory of Planned Behaviour. Organization Behavior and Human Decision 
Processes, No. 50, pp. 179-211.
Autio, E., Keeley, R.H., Klofsten, M., Parker, G.C. and Hay, M. (2001). Entrepreneurial Intent 
among Students in Scandinavia and in the USA. Enterprise and Innovation Management 
Studies 2 (2), 145–160.
Grimaldi, R. and Gradi, A. (2005). Business incubators and new venture creation; an assessmant of 
incubating models. Technovation, Vol. 25 No.2, pp. 111-121.
Karali, S. (2013). The Impact of entrepreneurship education programs on entrepreneurial intentions: 
An application of the theory of planned behavior. Erasmus University of Rotterdam - Master 
Thesis.
Khan, M. M., Ahmed, I., Nawaz, M. M., & Ramzan, M. (2011). Impact of personality traits on 
entrepreneurial intentions of university students. Interdisciplinary Journal of Research in 
Business, 1(4), 51-57.
Lĩnán, F., Rodríguez - Cohard, F. J., Rueda-Cantuche, J. M. (2011). Factors affecting entrepreneurial 
intention levels: a role for education. International Entrepreneurship and Management Journal, 
Volume 7, Issue 2, pp195-218. 
Luthje, C., & Franke, N. (2003). The making of an entrepreneur: testing a model of entrepreneurial 
intent among engineering students at MIT’. R&D Management, 33, (2), 135-147.
Ooi, Y, K., Selvarajah, C., & Meyer, D. (2011). Inclination towards entrepreneurship among 
university students: An empirical study of Malaysian university students. International Journal 
of Business and Social Social Science, 2 (4), 206-220.
Radas, S và Bozic, L. (2009). The antecedents of SME inovativeness in an emerging transition 
economy. Technovation, Vol. 29, pp. 438-450.
65
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Schaper, M. and Volery, T. (2004). Entrepreneurship and small business: A Pacific Rim perspective. 
Milton, Queensland, John Wiley and Sons Australia Ltd. 
Shapero, A. and Sokol, L. (1982). The social dimensions of entrepreneurship. in Kent, C., Sexton, 
D. and Vesper, K. (Eds). The Encyclopedia of Entrepreneurship. Prentice-Hall, Englewood 
Cliffs, NJ, p. 72-90.
Tam, H. W. (2009). How and to What Extent Does Entrepreneurship Education Make Students 
More Entrepreneurial? A California Case of the Technology Management Program. Doctor of 
Philosophy Dissertation, University of California, Santa Barbara.
Venkatachalam, V. B. and Waqif, A. A. (2005). Outlook on integrating entrepreneurship in 
management education in India. Decision 32(2): 57-71.
Yordanova, D., & Tarrazon, Maria-Antonia. (2010). Gender Differences in Entrepreneurial 
Intentions: Evidence From Bulgaria. Journal of Developmental Entrepreneurship, 15(3), 245-
261.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_y_dinh_khoi_nghiep_kinh_doanh_cua_s.pdf