Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay
Bài viết này nghiên cứu những biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng dưới sự tác động của chính sách Đổi mới của Đảng và Nhà nước, cũng như của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và những chuyển biến kinh tế - xã hội tại địa phương từ năm 1986 đến nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay
568 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 7, Số 4, 2017 568–586 BIẾN ĐỔI TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI CƠ-HO Ở TỈNH LÂM ĐỒNG TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY Lê Minh Chiếna*, Mai Minh Nhậtb aKhoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam bKhoa Lịch sử, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam Lịch sử bài báo Nhận ngày 26 tháng 10 năm 2017 Chỉnh sửa ngày 28 tháng 11 năm 2017 | Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 11 năm 2017 Tóm tắt Bài viết này nghiên cứu những biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng dưới sự tác động của chính sách Đổi mới của Đảng và Nhà nước, cũng như của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và những chuyển biến kinh tế - xã hội tại địa phương từ năm 1986 đến nay. Bài viết cũng phân tích những thách thức đang đặt ra đối với sự phát triển kinh tế bền vững của người Cơ-ho trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Biến đổi kinh tế; Hoạt động kinh tế; Người Cơ-ho; Tỉnh Lâm Đồng. 1. GIỚI THIỆU Người Cơ-ho (K’ho, Kơ Ho, Cơ Ho) là một trong 12 tộc người tại chỗ ở Tây Nguyên, cư trú tập trung chủ yếu trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (chiếm hơn 87%), số còn lại cư trú rải rác ở các huyện miền núi của các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Tính đến ngày 01/4/2009, người Cơ-ho ở Lâm Đồng có 145.665 người, cư trú trải rộng trên địa bàn các huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Đơn Dương, Lâm Hà, Đam Rông, Di Linh, Bảo Lâm, thành phố Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt. Với số dân khá đông và bề dày văn hóa của mình, người Cơ-ho là tộc người tại chỗ đóng vai trò quan trọng tại khu vực Nam Tây Nguyên. Tương tự các cư dân khác ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên, trong truyền thống, nền kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng mang nặng tính tự cung, tự cấp, khép kín và phụ thuộc chặt chẽ vào tự nhiên. Từ năm 1975, đặc biệt là từ năm 1986 đến nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là hiệu quả của các chính sách, chương trình, dự án đầu tư liên quan đến phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số của Nhà nước, hoạt động * Tác giả liên hệ: Email: chienlm@dlu.edu.vn TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 569 kinh tế của người Cơ-ho đã có sự thay đổi sâu sắc trên nhiều phương diện, theo hướng tham gia mạnh mẽ vào mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn với thị trường. Sự phát triển trong hoạt động kinh tế đã tạo những tiền đề quan trọng, dẫn đến những biến đổi trên các phương diện xã hội - văn hóa của tộc người này. Bên cạnh mảng màu tích cực nổi trội và chiếm ưu thế, sự biến đổi kinh tế của tộc người này hiện cũng đang đặt ra một số vấn đề mang tính chất nổi cộm, bức xúc cần giải quyết. Chính vì vậy, nghiên cứu sự biến đổi kinh tế của người Cơ-ho trong bối cảnh đương đại và nhận diện những thách thức đang đặt ra là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Cho đến nay, chưa có chuyên khảo về biến đổi kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng từ năm 1986 đến nay. Tuy vậy, vấn đề này đã ít nhiều được đề cập trong các công trình nghiên cứu miêu thuật về người Cơ-ho: Người Cơ ho ở Việt Nam (Bùi, 2003), Người Kơ Ho ở Lâm Đồng nghiên cứu nhân học về dân tộc và văn hóa (Phan, 2005), hoặc được đề cập đến trong một số bài viết: “Một số biến đổi kinh tế - xã hội của người Cơ-ho ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng trong thời kỳ đổi mới” của Bùi (2016) và “Biến đổi kinh tế - xã hội của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer từ Đổi mới đến nay và những vấn đề nghiên cứu đặt ra” của Vũ (2016). Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu về các vấn đề chuyển đổi sinh kế, tín dụng, nông dân - nông thôn - nông nghiệp... ở Tây Nguyên trong phát triển bền vững của Hoàng, Ngô, Hoàng, Vũ, và Nguyễn (2017); Bùi (2016); và Lê (2016),... cũng đã chọn một số cộng đồng Cơ-ho ở Lâm Đồng làm điểm khảo sát. Những số liệu và kết quả khảo sát tại các cộng đồng người Cơ-ho không được trình bày thành hệ thống riêng trong các công trình nghiên cứu mang tính chất khái quát cho cả vùng Tây Nguyên nhưng cũng đã cung cấp nguồn tư liệu bổ ích cho chúng tôi so sánh, đối chiếu, làm rõ thêm chủ đề nghiên cứu của bài viết. Tư liệu sử dụng trong bài viết này chủ yếu là tư liệu điền dã của nhóm tác giả tại một số vùng người Cơ-ho ở Lâm Đồng. Cùng với những tư liệu định tính thu thập bằng các phương pháp phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, chúng tôi cũng sử dụng những tư liệu định lượng thu thập được bằng phương pháp điều tra xã hội học với bảng hỏi cấu trúc. Cuộc khảo sát được tiến hành tại 3 xã có đông người Cơ-ho cư trú ở 3 huyện: N’thôl Hạ (huyện Đức Trọng), Gung Ré (huyện Di Linh) và Đạ Long (huyện Đam Rông). Tại mỗi xã chúng tôi khảo sát 100 hộ gia đình theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên dựa trên 570 Lê Minh Chiến và Mai Minh Nhật danh sách chủ hộ. Người trả lời phiếu khảo sát chủ yếu là chủ hộ - người nắm vững tình hình kinh tế hộ gia đình. Bảng câu hỏi được thiết kế cho một cuộc phỏng vấn trực tiếp giữa điều tra viên và người được hỏi trong một không gian đảm bảo tính riêng biệt và độc lập trong các câu trả lời của người được hỏi. 2. KINH TẾ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CƠ-HO Trong truyền thống, nền kinh tế của người Cơ-ho khá đa dạng, trong đó trồng trọt đóng vai trò chủ yếu. Tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên địa bàn cư trú, mỗi nhóm địa phương lựa chọn một loại hình canh tác chính. Người Cơ-ho Srê cư trú ở các thung lũng ven sông, suối, có những bãi bồi phù sa, có nước tưới thuận lợi nên làm ruộng nước (lơh srê) là hoạt động kinh tế truyền thống quan trọng, được người dân ưu thích nhất (tên gọi Srê của nhóm địa phương này có nghĩa là ruộng nước). Tương tự như các cư dân làm ruộng khác ở Tây Nguyên như người Giarai ở vùng thung lũng Cheo reo (tỉnh Gia Lai), người Êđê Bih vùng buôn Trấp ven sông Sêrêpôk, người Mnông Rlâm ven hồ Lăk (tỉnh Đăk Lăk) hoặc người Churu ở vùng Đức Trọng, Đơn Dương (Lâm Đồng),... kỹ thuật canh tác ruộng nước của người Cơ-ho Srê có hai loại: Ruộng trâu quần và ruộng dùng cày, bừa. Bên cạnh canh tác lúa nước là chủ đạo ... thập niên qua, cây cà phê đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống người Co Ho ở tỉnh Lâm Đồng. Như đã đề cập ở trên, cũng như ở nhiều địa phương khác, trong cơn sốt giá cà phê, thu hoạch từ cà phê có giá trị cao nên nhiều người Cơ-ho đã tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ đa canh truyền thống sang độc canh cà phê theo hướng đầu tư thâm canh, sản phẩm làm ra 100% phục vụ cho thị trường. Điều người dân không tính đến là sự bấp bênh của thị trường và sự mất ổn định của các điều kiện đầu vào của sản xuất (cà phê rớt giá, hạn hán và các thiên tai khác, khi chất lượng cà phê thấp, mở rộng diện tích thiếu quy hoạch...). Vì vậy, khi cà phê không tiêu thụ được, rớt giá hoặc vụ mùa thất bất thì khó có thể tìm kiếm nguồn sinh kế khác để tồn tại, điều mà trong truyền thống họ không phải đối diện vì có sự trợ giúp đắc lực từ rừng và rẫy đa canh với các loại cây lương thực truyền thống (Mai, 2012, tr. 43). Thực tế tại nhiều vùng TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 581 Cơ-ho ở Lâm Đồng, do đất đai bạc màu, giá cà phê chững lại ở mức thấp, cây cà phê già cỗi cho năng suất thấp, hạn hán... nhiều hộ dân gặp khó khăn, phải dựa vào sự hỗ trợ, cứu đói của Nhà nước. Thiếu vốn đầu tư sản xuất và nguy cơ tín dụng đen: Theo kết quả điều tra, thiếu vốn đầu tư là khó khăn lớn nhất, phổ biến nhất mà các hộ gia đình Cơ- ho gặp phải trong quá trình sản xuất (có 254 hộ trong mẫu khảo sát, chiếm 82.5%). Điều này có thể lý giải là do việc thâm cây cà phê đòi hỏi vốn đầu tư lớn cho việc bón phân, dầu chạy máy bơm nước tưới, hơn nữa đầu tư, chăm sóc một năm mới cho thu hoạch một lần vào những tháng cuối năm. Vì vậy, chỉ ở những xã có diện tích đất bazan rộng lớn, đời sống và thu nhập khá giả, người Cơ-ho có đủ nguồn lực tài chính để đầu tư mạnh cho sản xuất, tái canh cà phê. Ngược lại, tại những xã ở xa trung tâm, điều kiện kinh tế khó khăn, đất đai bạc màu (chiếm tỷ lệ khá lớn), đa phần diện tích cà phê của người Cơ- ho thuộc giống cũ, đã già cỗi nên cho năng suất thấp (khoảng dưới 2 tấn/ha). Thu nhập không ổn định, trong khi giá cả phân bón, đầu vào sản xuất lại cao nên người dân không đủ khả năng đầu tư thỏa đáng cho sản xuất. Vì vậy, ở những vùng này, tái canh ít được họ quan tâm vì cho rằng sẽ làm gián đoạn nguồn thu và phải đầu tư lại từ đầu. Bên cạnh đó, nền kinh tế đơn canh gắn với thị trường đã hình thành cho người Cơ-ho hành vi và thói quen tiêu dùng mới. Từ tiền bán cà phê hoặc làm công, người dân hầu hết phải mua mọi thứ cần thiết, phục vụ cho nhu cầu cuộc sống. Họ cũng có cơ hội tiếp cận và hưởng thụ tất cả các mặt hàng trước đây được coi là xa xỉ. Ngoài ra, tâm lý làm đến đâu, tiêu đến đấy vẫn còn phổ biến trong đông đảo người dân. Không ít gia đình đã dùng những khoản tiền khá lớn so với thu nhập của gia đình để sắm sửa những vật dụng, tiện nghi đắt tiền không phải để phục vụ sản xuất, không sinh lời mà chỉ tăng thêm giá trị cuộc sống. Thiếu vốn đầu tư sản xuất và các nhu cầu khác, người dân phải vay nợ, chủ yếu là từ ngân hàng hoặc các dịch vụ cho vay tư nhân lãi suất cao. Theo kết quả khảo sát của đề tài, có 235 hộ (chiếm 78.8%) cho biết gia đình hiện đang vay nợ. Trong đó, cao nhất là từ Ngân hàng Chính sách Xã hội (177 hộ, chiếm 73.1%), dịch vụ cho vay 582 Lê Minh Chiến và Mai Minh Nhật tư nhân hoặc vay thông qua mua nợ vật tư, hàng hóa tiêu dùng (88 hộ, chiếm 34.8%), Ngân hàng thương mại (25 hộ, chiếm 10.3%). Trong công trình nghiên cứu về tín dụng vùng dân tộc thiểu số, Hoàng và ctg. (2017) đã đưa ra số liệu khảo sát cụ thể về tình trạng nợ đáng lo ngại của người Cơ-ho ở Buôn Ban, xã Phú Sơn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng: Trung bình mỗi hộ Cơ-ho ở đây nợ 42.8 triệu/năm, trong đó có 19 triệu là nợ xấu (tức khoản vay không có khả năng trả hoặc trả không đúng hạn). Đáng chú ý là có tới 53.4% là vay từ hộ đại lý kinh doanh vật tư nông nghiệp và nguồn vay này chiếm 73.3% nợ xấu của các hộ gia đình (Hoàng & ctg., 2017, tr. 46). Rõ ràng, thiếu vốn đầu tư sản xuất và tín dụng đen là một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của người Cơ-ho ở nhiều địa phương. Trình độ kỹ thuật sản xuất thấp, thiếu việc làm, đặc biệt là việc làm cho thanh niên: Trong tác phẩm Hướng tới phát triển bền vững vùng Tây Nguyên, các tác giả nhận định rằng hiện nay, đội ngũ lao động người dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên rất dồi dào với cơ cấu dân số trẻ, nhưng nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực thấp (Lê & Phạm, 2013, tr. 205-207). Ở người Cơ-ho, tình hình cũng không nằm ngoài bức tranh chung đó. Hiện nay, tỷ lệ học sinh người Cơ-ho học lên bậc THPT, Trung cấp, Cao đẳng, Đại học chiếm tỷ lệ thấp. Số học sinh bỏ học giữa chừng cao, khả năng tiếp cận môi trường giáo dục bậc cao, trong đó có đào tạo nghề hạn chế, mặc dù đã có nhiều chương trình, dự án đào tạo nghề của Nhà nước được triển khai. Chính vì vậy, lao động người Cơ-ho chủ yếu đóng khung trong các hoạt động canh tác nông nghiệp. Nếu có hoạt động làm thuê thì cũng chủ yếu là các hoạt động chân tay thuần túy trong nông nghiệp: Trồng cây, bón phân, làm cỏ và thu hoạch nông sản. Đời sống và sinh kế gắn chặt với nông nghiệp và nông thôn, không có nhiều cơ hội và năng lực để chuyển đổi sang các lĩnh vực lao động phi nông. Mặc dù đã gắn bó với kinh tế hàng hóa trong nhiều thập kỷ nhưng người Cơ-ho tại nhiều địa phương vẫn còn mang đậm tư duy tự cấp tự túc truyền thống, ít muốn rời xa cộng đồng, ruộng vườn và các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Tình trạng này đã đặt ra nhiều hệ lụy kinh tế - xã hội trước TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 583 mắt và lâu dài. Toàn bộ gánh nặng thu nhập của các hộ gia đình sẽ dồn lên quỹ đất nông nghiệp đang ngày càng suy giảm về diện tích và độ màu mỡ. Mặt khác, do không có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp, nguồn lao động dư thừa trong sản xuất nông nghiệp có nguy cơ bị rơi vào các tệ nạn xã hội mới như nghiện ma túy, trộm cắp là những điều xa lạ với xã hội Cơ-ho trong truyền thống. Sản xuất nông nghiệp chưa gắn với với bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng: Mặc dù tại nhiều địa phương, chính sách giao khoán bảo vệ rừng được thực hiện hiệu quả, vừa tăng thu nhập cho người dân, vừa bảo vệ được nguồn tài nguyên rừng. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, hiện tượng người dân khai thác các nguồn tài nguyên rừng vẫn diễn ra phổ biến, với các hoạt động như khai thác gỗ, đốt than, đặc biệt là lấn chiếm và phá rừng để lấy đất sản xuất Tại nhiều vùng cư trú của người Cơ-ho, màu xanh của các dãy núi, cánh rừng dần nhường chỗ cho những rẫy cà phê được trồng lên đến tận đỉnh. Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu đất sản xuất, đời sống khó khăn, thiếu việc làm ổn định, sự buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương, sự mất hiệu lực và biến mất của các tri thức, luật tục truyền thống về sử dụng và bảo vệ nguồn lợi rừng... Cả trước mắt và lâu dài, sự suy giảm của nguồn tài nguyên rừng rõ ràng ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân cũng như môi trường sinh thái tự nhiên. Biến đổi khí hậu và các sự cố môi trường khác: Trong những năm qua, tuy chưa có những nghiên cứu cụ thể nhưng những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đến đời sống kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng là điều dễ nhận thấy. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, có 157 người trả lời cho rằng thiên tai là một trong những khó khăn mà họ gặp phải trong quá trình sản xuất (chiếm 52.9%, xếp thứ hai sau khó khăn vì thiếu vốn). Là những cư dân sống chủ yếu dựa vào trồng trọt (chủ yếu là cây công nghiệp), sống ở nhiều vùng có cơ sở hạ tầng, đường xá đi lại, hệ thống thủy lợi hạn chế, lại có đời sống kinh tế thấp hơn mặt bằng chung nên người Cơ-ho càng ít có điều kiện để tiếp cận các nguồn lực (cả tự nhiên, xã hội và tài chính) để đối phó với 584 Lê Minh Chiến và Mai Minh Nhật biến đổi khí hậu. Vì vậy, họ là đối tượng chịu tác động lớn hơn của những tai biến của tự nhiên so với những cư dân khác. Năm 2016, trận hạn hán kỷ lục đã làm cho 40000ha đất sản xuất và 6690 hộ dân ở Lâm Đồng bị thiếu nước sản xuất và sinh hoạt. Nhiều rẫy cà phê bị giảm năng suất, không cho thu hoạch thậm chí chết khô. Chính quyền đã phải xuất gạo, hỗ trợ cứu đói giáp hạt cho người DTTS trên địa bàn tỉnh, trong đó có người Cơ-ho ở Đà Lạt, Đơn Dương, Lâm Hà, Đam Rông, Biến đổi khí hậu cùng với diện tích rừng bị thu hẹp, đất đai bạc màu, hoang hóa, mực nước ngầm xuống thấp,... rõ ràng đang đặt ra người Cơ ho những thách thức không nhỏ trong sinh hoạt và sản xuất. 5. KẾT LUẬN Từ năm 1986 đến nay, các chính sách Đổi mới của Đảng và Nhà nước cũng như quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đô thị hóa và thị trường hóa đã làm thay đổi một cách căn bản hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng theo hướng chuyển nhanh từ sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp lương thực sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa, phục vụ thị trường xuất khẩu với cà phê là cây trồng chủ lực. Sự thay đổi đó đã kéo theo sự chuyển biến mạnh mẽ về chu trình, kỹ thuật canh tác, mối quan hệ giữa sản xuất với tiêu dùng và biến đổi các hoạt động sinh kế khác. Các loại hình kinh tế truyền thống như canh tác nương rẫy, kinh tế chiếm đoạt tự nhiên, nghề thủ công ngày càng thu hẹp, suy giảm vai trò. Xuất hiện một số hoạt động kinh tế mới như làm thuê trong nông nghiệp, buôn bán nhỏ, dịch vụ,... Những biến đổi trong hoạt động kinh tế đã tạo động lực làm thay đổi tích cực nhiều mặt đời sống của người dân: Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc,... Tuy vậy, quá trình biến đổi kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng hiện cũng bộ lộ nhiều điểm yếu và thách thức: Tình trạng thiếu đất sản xuất, những rủi ro đến từ nền sản xuất độc canh cây công nghiệp gắn với thị trường nhiều biến động về giá cả, thiếu vốn sản xuất và nguy cơ rơi vào vòng xoáy của tín dụng đen, trình độ nguồn nhân lực hạn chế, thiếu việc làm và thu nhập không ổn định, sản xuất nông nghiệp chưa gắn với bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, tác động ngày càng lớn của biến đổi khí hậu và các sự cố môi trường. Vì vậy, các cấp chính quyền phải khách quan nhìn nhận những khó khăn, thách TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 585 thức này để tìm những giải pháp toàn diện, hiệu quả, đảm bảo tính bền vững trong sự phát triển kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bùi, M. Đ. & Vũ, T. H. (2001). Người Cơ-ho ở Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Văn hóa Dân tộc. Bùi, M. Đ. (2016). Một số biến đổi kinh tế - xã hội của người Cơ-ho ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng trong thời kỳ Đổi mới. Tạp chí Dân tộc học, 1&2(194), 47-54. Bùi, Q. D. (2016). Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong phát triển bền vững Tây Nguyên [Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia thuộc Chương trình Tây Nguyên 3]. Hà Nội, Việt Nam: Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Cao, T. T. (1996). Văn hóa truyền thống Mạ - Cơ-ho [Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh]. Lâm Đồng, Việt Nam: Trường Đại học Đà Lạt. Hoàng, C., Ngô, T. P. L., Hoàng, A. D., Vũ, T. L., & Nguyễn, V. G. (2017). Chuyển đổi sinh kế và vấn đề tín dụng ở một số tộc người thiểu số tại Tây Nguyên và Tây Bắc. Hà Nội, Việt Nam: Viện ISEE. Lê, Đ. B. & Mai, M. N. (2011). Những nghi lễ trong chu kỳ canh tác nương rẫy của người Chil tại xã Đạ Long, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt, (1), 175-184. Lê, H. L. (2016). Vai trò văn hóa và lối sống trong phát triển bền vững Tây Nguyên [Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia thuộc Chương trình Tây Nguyên 3]. Hà Nội, Việt Nam: Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Lê, M. C. (2017). Biến đổi trong tổ chức xã hội của cộng đồng người Cơ-ho trong tiến trình đô thị hóa ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. (Luận án tiến sĩ), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Việt Nam. Lê, V. K. & Phạm, Q. T. (2014). Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Tri thức. Mai, T. S. (2012). Chính sách đất đai và văn hóa tộc người: Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Đăk Lăk. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Thế giới. Nguyên, N. (2008). Phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Trong Nhiều tác giả, Nông dân, nông thôn, nông nghiệp (tr. 137-184). Hà Nội, Việt Nam: NXB. Tri thức. Phan, N. C. (2005). Người Kơ ho ở Lâm Đồng - nghiên cứu nhân học về dân tộc và văn hóa. TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam: NXB. Trẻ. Thành, P. & Niê K’dăm, H., & Ikemoto, Y. (2007). Cà phê ở Tây Nguyên - tiếp cận lịch sử, nhân học và kinh tế. TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam: NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Vũ, Đ. M. (2016). Biến đổi kinh tế - xã hội của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer từ Đổi mới đến nay và những vấn đề nghiên cứu đặt ra. Tạp chí Dân tộc học, 1&2(194), 63-74. 586 Lê Minh Chiến và Mai Minh Nhật TRANSFORMATIONS IN ECONOMIC ACTIVITIES OF CO-HO PEOPLE IN LAMDONG PROVINCE SINCE RENOVATION TO PRESENT Le Minh Chiena*, Mai Minh Nhatb aThe Faculty of Social Work, Dalat University, Lamdong, Vietnam bThe Faculty of History, Dalat University, Lamdong, Vietnam *Corresponding author: Email: chienlm@dlu.edu.vn Article history Received: October 26th, 2017 Received in revised form: November 28th, 2017 | Accepted: November 29th, 2017 Abstract This paper presents the transformation in economic activities of Co-ho people in Lamdong province under the influence of the Renovation policy by the Vietnamese Party and State, along with the process of industrialization, modernization, global integration and the local social-economic fluctuations in Lamdong province since 1986. It also analyses the challenges that the people of Co-ho community face concerning their economic development today. Keywords: Co-ho people; Economic activity; Economic transformation; Lamdong province.
File đính kèm:
- bien_doi_trong_hoat_dong_kinh_te_cua_nguoi_co_ho_o_tinh_lam.pdf