Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay

Bài viết này nghiên cứu những biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng dưới sự tác động của chính sách Đổi mới của Đảng và Nhà nước, cũng như của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và những chuyển biến kinh tế - xã hội tại địa phương từ năm 1986 đến nay.

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 1

Trang 1

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 2

Trang 2

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 3

Trang 3

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 4

Trang 4

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 5

Trang 5

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 6

Trang 6

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 7

Trang 7

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 8

Trang 8

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 9

Trang 9

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 19 trang Danh Thịnh 11/01/2024 1820
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay

Biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm Đồng từ đổi mới đến nay
568 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 7, Số 4, 2017 568–586 
BIẾN ĐỔI TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI CƠ-HO Ở 
TỈNH LÂM ĐỒNG TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY 
Lê Minh Chiếna*, Mai Minh Nhậtb 
aKhoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam 
bKhoa Lịch sử, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam 
Lịch sử bài báo 
Nhận ngày 26 tháng 10 năm 2017 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 11 năm 2017 | Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 11 năm 2017 
Tóm tắt 
Bài viết này nghiên cứu những biến đổi trong hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở tỉnh Lâm 
Đồng dưới sự tác động của chính sách Đổi mới của Đảng và Nhà nước, cũng như của quá 
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và những chuyển biến kinh tế - xã 
hội tại địa phương từ năm 1986 đến nay. Bài viết cũng phân tích những thách thức đang đặt 
ra đối với sự phát triển kinh tế bền vững của người Cơ-ho trong giai đoạn hiện nay. 
Từ khóa: Biến đổi kinh tế; Hoạt động kinh tế; Người Cơ-ho; Tỉnh Lâm Đồng. 
1. GIỚI THIỆU 
Người Cơ-ho (K’ho, Kơ Ho, Cơ Ho) là một trong 12 tộc người tại chỗ ở Tây 
Nguyên, cư trú tập trung chủ yếu trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (chiếm hơn 87%), số còn 
lại cư trú rải rác ở các huyện miền núi của các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. 
Tính đến ngày 01/4/2009, người Cơ-ho ở Lâm Đồng có 145.665 người, cư trú trải rộng 
trên địa bàn các huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Đơn Dương, Lâm Hà, Đam Rông, Di 
Linh, Bảo Lâm, thành phố Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt. Với số dân khá đông và bề dày 
văn hóa của mình, người Cơ-ho là tộc người tại chỗ đóng vai trò quan trọng tại khu vực 
Nam Tây Nguyên. 
Tương tự các cư dân khác ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên, trong truyền 
thống, nền kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng mang nặng tính tự cung, tự cấp, khép 
kín và phụ thuộc chặt chẽ vào tự nhiên. Từ năm 1975, đặc biệt là từ năm 1986 đến nay, 
do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là hiệu quả của các chính sách, chương trình, dự 
án đầu tư liên quan đến phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số của Nhà nước, hoạt động 
* Tác giả liên hệ: Email: chienlm@dlu.edu.vn 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 569 
kinh tế của người Cơ-ho đã có sự thay đổi sâu sắc trên nhiều phương diện, theo hướng 
tham gia mạnh mẽ vào mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn với thị trường. Sự 
phát triển trong hoạt động kinh tế đã tạo những tiền đề quan trọng, dẫn đến những biến 
đổi trên các phương diện xã hội - văn hóa của tộc người này. Bên cạnh mảng màu tích 
cực nổi trội và chiếm ưu thế, sự biến đổi kinh tế của tộc người này hiện cũng đang đặt ra 
một số vấn đề mang tính chất nổi cộm, bức xúc cần giải quyết. Chính vì vậy, nghiên cứu 
sự biến đổi kinh tế của người Cơ-ho trong bối cảnh đương đại và nhận diện những thách 
thức đang đặt ra là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 
Cho đến nay, chưa có chuyên khảo về biến đổi kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm 
Đồng từ năm 1986 đến nay. Tuy vậy, vấn đề này đã ít nhiều được đề cập trong các công 
trình nghiên cứu miêu thuật về người Cơ-ho: Người Cơ ho ở Việt Nam (Bùi, 2003), Người 
Kơ Ho ở Lâm Đồng nghiên cứu nhân học về dân tộc và văn hóa (Phan, 2005), hoặc được 
đề cập đến trong một số bài viết: “Một số biến đổi kinh tế - xã hội của người Cơ-ho ở 
huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng trong thời kỳ đổi mới” của Bùi (2016) và “Biến đổi kinh 
tế - xã hội của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer từ Đổi mới đến nay và 
những vấn đề nghiên cứu đặt ra” của Vũ (2016). Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu 
về các vấn đề chuyển đổi sinh kế, tín dụng, nông dân - nông thôn - nông nghiệp... ở Tây 
Nguyên trong phát triển bền vững của Hoàng, Ngô, Hoàng, Vũ, và Nguyễn (2017); Bùi 
(2016); và Lê (2016),... cũng đã chọn một số cộng đồng Cơ-ho ở Lâm Đồng làm điểm 
khảo sát. Những số liệu và kết quả khảo sát tại các cộng đồng người Cơ-ho không được 
trình bày thành hệ thống riêng trong các công trình nghiên cứu mang tính chất khái quát 
cho cả vùng Tây Nguyên nhưng cũng đã cung cấp nguồn tư liệu bổ ích cho chúng tôi so 
sánh, đối chiếu, làm rõ thêm chủ đề nghiên cứu của bài viết. 
Tư liệu sử dụng trong bài viết này chủ yếu là tư liệu điền dã của nhóm tác giả tại 
một số vùng người Cơ-ho ở Lâm Đồng. Cùng với những tư liệu định tính thu thập bằng 
các phương pháp phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, chúng tôi cũng sử dụng những tư liệu 
định lượng thu thập được bằng phương pháp điều tra xã hội học với bảng hỏi cấu trúc. 
Cuộc khảo sát được tiến hành tại 3 xã có đông người Cơ-ho cư trú ở 3 huyện: N’thôl Hạ 
(huyện Đức Trọng), Gung Ré (huyện Di Linh) và Đạ Long (huyện Đam Rông). Tại mỗi 
xã chúng tôi khảo sát 100 hộ gia đình theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên dựa trên 
570 Lê Minh Chiến và Mai Minh Nhật 
danh sách chủ hộ. Người trả lời phiếu khảo sát chủ yếu là chủ hộ - người nắm vững tình 
hình kinh tế hộ gia đình. Bảng câu hỏi được thiết kế cho một cuộc phỏng vấn trực tiếp 
giữa điều tra viên và người được hỏi trong một không gian đảm bảo tính riêng biệt và độc 
lập trong các câu trả lời của người được hỏi. 
2. KINH TẾ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CƠ-HO 
Trong truyền thống, nền kinh tế của người Cơ-ho khá đa dạng, trong đó trồng trọt 
đóng vai trò chủ yếu. Tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên địa bàn cư trú, mỗi nhóm địa 
phương lựa chọn một loại hình canh tác chính. 
Người Cơ-ho Srê cư trú ở các thung lũng ven sông, suối, có những bãi bồi phù sa, 
có nước tưới thuận lợi nên làm ruộng nước (lơh srê) là hoạt động kinh tế truyền thống 
quan trọng, được người dân ưu thích nhất (tên gọi Srê của nhóm địa phương này có nghĩa 
là ruộng nước). Tương tự như các cư dân làm ruộng khác ở Tây Nguyên như người Giarai 
ở vùng thung lũng Cheo reo (tỉnh Gia Lai), người Êđê Bih vùng buôn Trấp ven sông 
Sêrêpôk, người Mnông Rlâm ven hồ Lăk (tỉnh Đăk Lăk) hoặc người Churu ở vùng Đức 
Trọng, Đơn Dương (Lâm Đồng),... kỹ thuật canh tác ruộng nước của người Cơ-ho Srê có 
hai loại: Ruộng trâu quần và ruộng dùng cày, bừa. Bên cạnh canh tác lúa nước là chủ đạo ...  thập niên qua, cây cà phê đã góp phần không nhỏ 
vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống người Co Ho ở tỉnh Lâm Đồng. Như 
đã đề cập ở trên, cũng như ở nhiều địa phương khác, trong cơn sốt giá cà phê, 
thu hoạch từ cà phê có giá trị cao nên nhiều người Cơ-ho đã tích cực chuyển 
đổi cơ cấu cây trồng, từ đa canh truyền thống sang độc canh cà phê theo 
hướng đầu tư thâm canh, sản phẩm làm ra 100% phục vụ cho thị trường. Điều 
người dân không tính đến là sự bấp bênh của thị trường và sự mất ổn định 
của các điều kiện đầu vào của sản xuất (cà phê rớt giá, hạn hán và các thiên 
tai khác, khi chất lượng cà phê thấp, mở rộng diện tích thiếu quy hoạch...). 
Vì vậy, khi cà phê không tiêu thụ được, rớt giá hoặc vụ mùa thất bất thì khó 
có thể tìm kiếm nguồn sinh kế khác để tồn tại, điều mà trong truyền thống họ 
không phải đối diện vì có sự trợ giúp đắc lực từ rừng và rẫy đa canh với các 
loại cây lương thực truyền thống (Mai, 2012, tr. 43). Thực tế tại nhiều vùng 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 581 
Cơ-ho ở Lâm Đồng, do đất đai bạc màu, giá cà phê chững lại ở mức thấp, cây 
cà phê già cỗi cho năng suất thấp, hạn hán... nhiều hộ dân gặp khó khăn, phải 
dựa vào sự hỗ trợ, cứu đói của Nhà nước. 
 Thiếu vốn đầu tư sản xuất và nguy cơ tín dụng đen: Theo kết quả điều tra, 
thiếu vốn đầu tư là khó khăn lớn nhất, phổ biến nhất mà các hộ gia đình Cơ-
ho gặp phải trong quá trình sản xuất (có 254 hộ trong mẫu khảo sát, chiếm 
82.5%). Điều này có thể lý giải là do việc thâm cây cà phê đòi hỏi vốn đầu 
tư lớn cho việc bón phân, dầu chạy máy bơm nước tưới, hơn nữa đầu tư, chăm 
sóc một năm mới cho thu hoạch một lần vào những tháng cuối năm. Vì vậy, 
chỉ ở những xã có diện tích đất bazan rộng lớn, đời sống và thu nhập khá giả, 
người Cơ-ho có đủ nguồn lực tài chính để đầu tư mạnh cho sản xuất, tái canh 
cà phê. Ngược lại, tại những xã ở xa trung tâm, điều kiện kinh tế khó khăn, 
đất đai bạc màu (chiếm tỷ lệ khá lớn), đa phần diện tích cà phê của người Cơ-
ho thuộc giống cũ, đã già cỗi nên cho năng suất thấp (khoảng dưới 2 tấn/ha). 
Thu nhập không ổn định, trong khi giá cả phân bón, đầu vào sản xuất lại cao 
nên người dân không đủ khả năng đầu tư thỏa đáng cho sản xuất. Vì vậy, ở 
những vùng này, tái canh ít được họ quan tâm vì cho rằng sẽ làm gián đoạn 
nguồn thu và phải đầu tư lại từ đầu. Bên cạnh đó, nền kinh tế đơn canh gắn 
với thị trường đã hình thành cho người Cơ-ho hành vi và thói quen tiêu dùng 
mới. Từ tiền bán cà phê hoặc làm công, người dân hầu hết phải mua mọi thứ 
cần thiết, phục vụ cho nhu cầu cuộc sống. Họ cũng có cơ hội tiếp cận và 
hưởng thụ tất cả các mặt hàng trước đây được coi là xa xỉ. Ngoài ra, tâm lý 
làm đến đâu, tiêu đến đấy vẫn còn phổ biến trong đông đảo người dân. Không 
ít gia đình đã dùng những khoản tiền khá lớn so với thu nhập của gia đình để 
sắm sửa những vật dụng, tiện nghi đắt tiền không phải để phục vụ sản xuất, 
không sinh lời mà chỉ tăng thêm giá trị cuộc sống. Thiếu vốn đầu tư sản xuất 
và các nhu cầu khác, người dân phải vay nợ, chủ yếu là từ ngân hàng hoặc 
các dịch vụ cho vay tư nhân lãi suất cao. Theo kết quả khảo sát của đề tài, có 
235 hộ (chiếm 78.8%) cho biết gia đình hiện đang vay nợ. Trong đó, cao nhất 
là từ Ngân hàng Chính sách Xã hội (177 hộ, chiếm 73.1%), dịch vụ cho vay 
582 Lê Minh Chiến và Mai Minh Nhật 
tư nhân hoặc vay thông qua mua nợ vật tư, hàng hóa tiêu dùng (88 hộ, chiếm 
34.8%), Ngân hàng thương mại (25 hộ, chiếm 10.3%). Trong công trình 
nghiên cứu về tín dụng vùng dân tộc thiểu số, Hoàng và ctg. (2017) đã đưa 
ra số liệu khảo sát cụ thể về tình trạng nợ đáng lo ngại của người Cơ-ho ở 
Buôn Ban, xã Phú Sơn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng: Trung bình mỗi hộ 
Cơ-ho ở đây nợ 42.8 triệu/năm, trong đó có 19 triệu là nợ xấu (tức khoản vay 
không có khả năng trả hoặc trả không đúng hạn). Đáng chú ý là có tới 53.4% 
là vay từ hộ đại lý kinh doanh vật tư nông nghiệp và nguồn vay này chiếm 
73.3% nợ xấu của các hộ gia đình (Hoàng & ctg., 2017, tr. 46). Rõ ràng, 
thiếu vốn đầu tư sản xuất và tín dụng đen là một thách thức lớn đối với sự 
phát triển bền vững của người Cơ-ho ở nhiều địa phương. 
 Trình độ kỹ thuật sản xuất thấp, thiếu việc làm, đặc biệt là việc làm cho thanh 
niên: Trong tác phẩm Hướng tới phát triển bền vững vùng Tây Nguyên, các 
tác giả nhận định rằng hiện nay, đội ngũ lao động người dân tộc thiểu số tại 
chỗ Tây Nguyên rất dồi dào với cơ cấu dân số trẻ, nhưng nhìn chung chất 
lượng nguồn nhân lực thấp (Lê & Phạm, 2013, tr. 205-207). Ở người Cơ-ho, 
tình hình cũng không nằm ngoài bức tranh chung đó. Hiện nay, tỷ lệ học sinh 
người Cơ-ho học lên bậc THPT, Trung cấp, Cao đẳng, Đại học chiếm tỷ lệ 
thấp. Số học sinh bỏ học giữa chừng cao, khả năng tiếp cận môi trường giáo 
dục bậc cao, trong đó có đào tạo nghề hạn chế, mặc dù đã có nhiều chương 
trình, dự án đào tạo nghề của Nhà nước được triển khai. Chính vì vậy, lao 
động người Cơ-ho chủ yếu đóng khung trong các hoạt động canh tác nông 
nghiệp. Nếu có hoạt động làm thuê thì cũng chủ yếu là các hoạt động chân 
tay thuần túy trong nông nghiệp: Trồng cây, bón phân, làm cỏ và thu hoạch 
nông sản. Đời sống và sinh kế gắn chặt với nông nghiệp và nông thôn, không 
có nhiều cơ hội và năng lực để chuyển đổi sang các lĩnh vực lao động phi 
nông. Mặc dù đã gắn bó với kinh tế hàng hóa trong nhiều thập kỷ nhưng 
người Cơ-ho tại nhiều địa phương vẫn còn mang đậm tư duy tự cấp tự túc 
truyền thống, ít muốn rời xa cộng đồng, ruộng vườn và các hoạt động sản 
xuất nông nghiệp. Tình trạng này đã đặt ra nhiều hệ lụy kinh tế - xã hội trước 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 583 
mắt và lâu dài. Toàn bộ gánh nặng thu nhập của các hộ gia đình sẽ dồn lên 
quỹ đất nông nghiệp đang ngày càng suy giảm về diện tích và độ màu mỡ. 
Mặt khác, do không có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp, nguồn lao động dư 
thừa trong sản xuất nông nghiệp có nguy cơ bị rơi vào các tệ nạn xã hội mới 
như nghiện ma túy, trộm cắp là những điều xa lạ với xã hội Cơ-ho trong 
truyền thống. 
 Sản xuất nông nghiệp chưa gắn với với bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng: 
Mặc dù tại nhiều địa phương, chính sách giao khoán bảo vệ rừng được thực 
hiện hiệu quả, vừa tăng thu nhập cho người dân, vừa bảo vệ được nguồn tài 
nguyên rừng. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, hiện tượng người dân khai thác các 
nguồn tài nguyên rừng vẫn diễn ra phổ biến, với các hoạt động như khai thác 
gỗ, đốt than, đặc biệt là lấn chiếm và phá rừng để lấy đất sản xuất Tại nhiều 
vùng cư trú của người Cơ-ho, màu xanh của các dãy núi, cánh rừng dần 
nhường chỗ cho những rẫy cà phê được trồng lên đến tận đỉnh. Nguyên nhân 
của tình trạng này là do thiếu đất sản xuất, đời sống khó khăn, thiếu việc làm 
ổn định, sự buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương, sự mất hiệu lực 
và biến mất của các tri thức, luật tục truyền thống về sử dụng và bảo vệ nguồn 
lợi rừng... Cả trước mắt và lâu dài, sự suy giảm của nguồn tài nguyên rừng 
rõ ràng ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân cũng như môi 
trường sinh thái tự nhiên. 
 Biến đổi khí hậu và các sự cố môi trường khác: Trong những năm qua, tuy 
chưa có những nghiên cứu cụ thể nhưng những tác động tiêu cực của biến 
đổi khí hậu đến đời sống kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng là điều dễ 
nhận thấy. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, có 157 người trả lời cho rằng 
thiên tai là một trong những khó khăn mà họ gặp phải trong quá trình sản 
xuất (chiếm 52.9%, xếp thứ hai sau khó khăn vì thiếu vốn). Là những cư dân 
sống chủ yếu dựa vào trồng trọt (chủ yếu là cây công nghiệp), sống ở nhiều 
vùng có cơ sở hạ tầng, đường xá đi lại, hệ thống thủy lợi hạn chế, lại có đời 
sống kinh tế thấp hơn mặt bằng chung nên người Cơ-ho càng ít có điều kiện 
để tiếp cận các nguồn lực (cả tự nhiên, xã hội và tài chính) để đối phó với 
584 Lê Minh Chiến và Mai Minh Nhật 
biến đổi khí hậu. Vì vậy, họ là đối tượng chịu tác động lớn hơn của những tai 
biến của tự nhiên so với những cư dân khác. Năm 2016, trận hạn hán kỷ lục 
đã làm cho 40000ha đất sản xuất và 6690 hộ dân ở Lâm Đồng bị thiếu nước 
sản xuất và sinh hoạt. Nhiều rẫy cà phê bị giảm năng suất, không cho thu 
hoạch thậm chí chết khô. Chính quyền đã phải xuất gạo, hỗ trợ cứu đói giáp 
hạt cho người DTTS trên địa bàn tỉnh, trong đó có người Cơ-ho ở Đà Lạt, 
Đơn Dương, Lâm Hà, Đam Rông, Biến đổi khí hậu cùng với diện tích rừng 
bị thu hẹp, đất đai bạc màu, hoang hóa, mực nước ngầm xuống thấp,... rõ 
ràng đang đặt ra người Cơ ho những thách thức không nhỏ trong sinh hoạt và 
sản xuất. 
5. KẾT LUẬN 
Từ năm 1986 đến nay, các chính sách Đổi mới của Đảng và Nhà nước cũng như 
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đô thị hóa và thị trường hóa đã làm thay đổi một 
cách căn bản hoạt động kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng theo hướng chuyển nhanh 
từ sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp lương thực sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa, phục 
vụ thị trường xuất khẩu với cà phê là cây trồng chủ lực. Sự thay đổi đó đã kéo theo sự 
chuyển biến mạnh mẽ về chu trình, kỹ thuật canh tác, mối quan hệ giữa sản xuất với tiêu 
dùng và biến đổi các hoạt động sinh kế khác. Các loại hình kinh tế truyền thống như canh 
tác nương rẫy, kinh tế chiếm đoạt tự nhiên, nghề thủ công ngày càng thu hẹp, suy giảm 
vai trò. Xuất hiện một số hoạt động kinh tế mới như làm thuê trong nông nghiệp, buôn 
bán nhỏ, dịch vụ,... Những biến đổi trong hoạt động kinh tế đã tạo động lực làm thay đổi 
tích cực nhiều mặt đời sống của người dân: Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh, đời sống vật chất, 
tinh thần ngày càng được nâng cao, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc,... 
Tuy vậy, quá trình biến đổi kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng hiện cũng bộ lộ 
nhiều điểm yếu và thách thức: Tình trạng thiếu đất sản xuất, những rủi ro đến từ nền sản 
xuất độc canh cây công nghiệp gắn với thị trường nhiều biến động về giá cả, thiếu vốn 
sản xuất và nguy cơ rơi vào vòng xoáy của tín dụng đen, trình độ nguồn nhân lực hạn chế, 
thiếu việc làm và thu nhập không ổn định, sản xuất nông nghiệp chưa gắn với bảo vệ và 
phát triển tài nguyên rừng, tác động ngày càng lớn của biến đổi khí hậu và các sự cố môi 
trường. Vì vậy, các cấp chính quyền phải khách quan nhìn nhận những khó khăn, thách 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 585 
thức này để tìm những giải pháp toàn diện, hiệu quả, đảm bảo tính bền vững trong sự phát 
triển kinh tế của người Cơ-ho ở Lâm Đồng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bùi, M. Đ. & Vũ, T. H. (2001). Người Cơ-ho ở Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Văn 
hóa Dân tộc. 
Bùi, M. Đ. (2016). Một số biến đổi kinh tế - xã hội của người Cơ-ho ở huyện Di Linh, 
tỉnh Lâm Đồng trong thời kỳ Đổi mới. Tạp chí Dân tộc học, 1&2(194), 47-54. 
Bùi, Q. D. (2016). Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong phát triển bền vững 
Tây Nguyên [Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia thuộc Chương 
trình Tây Nguyên 3]. Hà Nội, Việt Nam: Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 
Cao, T. T. (1996). Văn hóa truyền thống Mạ - Cơ-ho [Đề tài nghiên cứu khoa học cấp 
tỉnh]. Lâm Đồng, Việt Nam: Trường Đại học Đà Lạt. 
Hoàng, C., Ngô, T. P. L., Hoàng, A. D., Vũ, T. L., & Nguyễn, V. G. (2017). Chuyển đổi 
sinh kế và vấn đề tín dụng ở một số tộc người thiểu số tại Tây Nguyên và Tây 
Bắc. Hà Nội, Việt Nam: Viện ISEE. 
Lê, Đ. B. & Mai, M. N. (2011). Những nghi lễ trong chu kỳ canh tác nương rẫy của người 
Chil tại xã Đạ Long, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Tạp chí Khoa học Đại học 
Đà Lạt, (1), 175-184. 
Lê, H. L. (2016). Vai trò văn hóa và lối sống trong phát triển bền vững Tây Nguyên [Đề 
tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia thuộc Chương trình Tây Nguyên 
3]. Hà Nội, Việt Nam: Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 
Lê, M. C. (2017). Biến đổi trong tổ chức xã hội của cộng đồng người Cơ-ho trong tiến 
trình đô thị hóa ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. (Luận án 
tiến sĩ), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Việt Nam. 
Lê, V. K. & Phạm, Q. T. (2014). Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên. Hà Nội, 
Việt Nam: NXB. Tri thức. 
Mai, T. S. (2012). Chính sách đất đai và văn hóa tộc người: Nghiên cứu trường hợp tại 
tỉnh Đăk Lăk. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Thế giới. 
Nguyên, N. (2008). Phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Trong Nhiều tác giả, Nông dân, 
nông thôn, nông nghiệp (tr. 137-184). Hà Nội, Việt Nam: NXB. Tri thức. 
Phan, N. C. (2005). Người Kơ ho ở Lâm Đồng - nghiên cứu nhân học về dân tộc và văn 
hóa. TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam: NXB. Trẻ. 
Thành, P. & Niê K’dăm, H., & Ikemoto, Y. (2007). Cà phê ở Tây Nguyên - tiếp cận lịch 
sử, nhân học và kinh tế. TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam: NXB. Đại học Quốc gia TP. 
Hồ Chí Minh. 
Vũ, Đ. M. (2016). Biến đổi kinh tế - xã hội của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - 
Khmer từ Đổi mới đến nay và những vấn đề nghiên cứu đặt ra. Tạp chí Dân tộc 
học, 1&2(194), 63-74. 
586 Lê Minh Chiến và Mai Minh Nhật 
TRANSFORMATIONS IN ECONOMIC ACTIVITIES 
OF CO-HO PEOPLE IN LAMDONG PROVINCE 
SINCE RENOVATION TO PRESENT 
Le Minh Chiena*, Mai Minh Nhatb 
aThe Faculty of Social Work, Dalat University, Lamdong, Vietnam 
bThe Faculty of History, Dalat University, Lamdong, Vietnam 
*Corresponding author: Email: chienlm@dlu.edu.vn 
Article history 
Received: October 26th, 2017 
Received in revised form: November 28th, 2017 | Accepted: November 29th, 2017 
Abstract 
This paper presents the transformation in economic activities of Co-ho people in Lamdong 
province under the influence of the Renovation policy by the Vietnamese Party and State, 
along with the process of industrialization, modernization, global integration and the local 
social-economic fluctuations in Lamdong province since 1986. It also analyses the 
challenges that the people of Co-ho community face concerning their economic development 
today. 
Keywords: Co-ho people; Economic activity; Economic transformation; Lamdong province. 

File đính kèm:

  • pdfbien_doi_trong_hoat_dong_kinh_te_cua_nguoi_co_ho_o_tinh_lam.pdf